Audio : Màu Áo Sơn Khê (Cù Lệ Duyên) - Thanh Quý
Còn một điểm đáng chú ý nữa là nhiều thuật ngữ vốn chỉ thường thấy trong Phật giáo đã được tác giả khai thác một cách tự nhiên đầy sáng tạo: “Niềm lạc an tựa trái mơ ngọt ngào” (Hương Xuân) hay “Ôi! Phúc điền sáng ngời/ Từ bi ánh dương ngàn nơi” (Áo cà sa) hoặc “Trên đường về bến/ Thoát đời trầm luân/ Muôn ngàn thử thách/ Vô minh che mờ/ Ai người lạc lối/ Muôn dặm trùng khơi/ Đâu thuyền về bến Chân Như Người ơi?” (Suối giải oan)…
(Trích bài : Những giai điệu đẹp về chùa Hương của Nguyễn Quang Long)
2. Chùa Hương qua thi ca
Hằng năm cứ đến độ tết đến, xuân về, người dân quê tôi lại bồi hồi ngóng đợi ngày khai hội chùa Hương vào mùng 6 tết. Vừa trông đợi vừa tự hào, bởi chùa Hương có 4 cái nhất: Ngoài việc, ngày xưa được Vua ban tặng: “Nam thiên đệ nhất động”, nơi đây còn là lễ hội dài nhất (kéo dài 3 tháng), người trong cả nước tới lễ hội đông nhất và ở đây có nhiều đò, ghe nhất, để chở du khách theo dòng suối Yến vào chùa. Riêng chúng tôi còn thấy một cái nhất nữa là từ xưa tới nay, chùa Hương có nhiều bài thơ tình, ý nhị, nổi tiếng nhất.
Đầu tiên phải kể đến bài thơ “Rau Sắng Chùa Hương” của Tản Đà. Đó là vào mùa xuân năm 1922, trong hoàn cảnh túng thiếu, ông không đi hội chùa Hương được, ngồi ở Hà Nội, nhớ hội chùa, nhớ rau Sắng (sản vật nổi tiếng ở chùa Hương), ông làm bài thơ tự tình:
Muốn ăn rau Sắng chùa Hương
Tiền đò ngại tốn, con đường ngại xa
Mình đi ta ở lại nhà
Cái dưa thì khú, cái cà thì thâm.
Bài thơ được đăng trên báo. Không ngờ ít ngày sau bỗng nhận được một bưu phẩm không đề của ai gửi. Mở ra xem thì thấy một bó rau Sắng chùa Hương còn tươi, kèm thêm mảnh giấy đề 4 câu thơ rằng:
Kính dâng rau Sắng chùa Hương
Tiền đò đỡ tốn, con đường đỡ xa
Không đi thì gửi lại nhà
Thay cho dưa khú cùng là cà thâm.
Ký tên: Đỗ Trang Nữ
Nhà thơ cảm động không biết món quà của ai. Với trí óc đầy mơ mộng, ông gọi ngay kẻ cho quà là “Người tình không quen biết” và làm bài thơ “cảm tạ tri ân” đăng lên báo. Nghe đâu mớ rau Sắng và mấy vần thơ trên là của Đỗ thị Khê, biệt hiệu Song Khê- một người hay làm thơ và rất mến phục Tản Đà, lúc ấy đang làm công tác y tế ở thị xã Phủ Lý . (Đỗ tang nữ là cô gái hái dâu họ Đỗ, chính là nữ sĩ Song Khê (1903)).
Nhiều người còn nhớ mãi bài thơ nổi tiếng. Bài thơ dài (136 câu), điển hình cho phong trào thơ mới (1932- 1945) của Nguyễn Nhược Pháp về “Chùa Hương”. Bài thơ được viết theo thể ngũ ngôn, là thể thơ gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày của người dân nhưng lại không tầm thường, dung tục. Nhân vật chính của bài thơ là một cô gái có nhan sắc nhưng còn ít tuổi và rất hồn nhiên:
Em tuy mới mười lăm
Mà đã lắm người thăm
Nhờ mối mai đưa tiếng
Khen tươi như trăng rằm
Nhưng em chưa lấy ai
Vì thầy bảo người mai
Rằng em còn bé lắm
Ý đợi người tài trai
Trong chuyến đi chùa Hương năm ấy, cô gái đã gặp người “tài trai” khiến cô rung động:
Người đâu thanh lạ nhường
Tướng mạo trông phi thường
Lưng cao dài, trán rộng
Hỏi ai người không thương
Cô gái trong bài thơ thể hiện rõ là con nhà gia giáo, thật thà mà ý tứ. Thoạt tiên cô còn giấu tình cảm của mình, song bố mẹ cô cùng đi chùa, cũng biết chàng trai là người có học, lễ phép, từ đó suốt cả hành trình thăm chùa chiền, hang động, đôi bạn trẻ đã có cớ để luôn gần nhau. Cô gái từ tâm lý ngại ngùng, giữ ý ban đầu:
Em đi, chàng theo sau
Em không dám đi mau
Ngại chàng chê hấp tấp
Số gian nan không giàu
Ở phần kết bài thơ đã chuyển sang bạo dạn, công khai bộc lộ cảm xúc của mình:
Đường đây kia lên giời
Ta bước tựa vai cười
Yêu nhau, yêu nhau mãi
Đi, ta đi, chàng ơi
Và
Ngun ngút khói hương vàngSay trong giấc mơ màng
Em cầu xin Giời Phật
Sao cho em lấy chàng
Chính sự chủ động trong việc tìm kiếm tình yêu của cô gái, khiến thi phẩm “Chùa Hương” bứt lên khỏi một bài thơ kể chuyện bình thường, trở thành một khúc tình ca đầy mê đắm. Vì thế, dù bài thơ được tác giả sáng tác đến nay đã hơn 80 năm (từ năm 1934), song ngôn ngữ của nhân vật trong thơ, đọc lên vẫn cứ tươi mới, sinh động như không hề có dấu vết của thời gian .