Fb Phan Chi, 5-7-2019
Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh.
Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết.
Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên. Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa.
Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy.
Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.
Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh.
Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.
Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn.
Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó.
Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp:
“Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dàiPhút khuây khỏaLàm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnhNên câu thơ quá động.Lục bát trèoLên võngĐung đưa…”
Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra.
Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính. Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng.
Nói về thế hệ mình, anh tự hào:
“Thế hệ chúng tôi !Ai cũng dễ thương,Thơm thảo như hoa,Ngọt ngào như trái.Tình đồng đội lòng không cỏ dại,Nghĩa đồng bào - Bầu, Bí thương nhau.”
Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông:
“Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồngNhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậyĐời con gái chín dần trong cây gậyRụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.”
Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà:
“Con dâu nằm chung với mẹ chồng,Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.”
Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên.
Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc!
Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn:
“Chúng tôi cườiCười chật đấtCười chật sôngCười chật suối…”
Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật:
“Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,Cái sợ nhất lúc này là đói.Đói vàng mắt,Đói long đầu gối,Đói phạc phờ,Đói thừa cả chân tay…!Mà lạ chưa?Vào chính lúc này,Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.”
Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ:
“Bây giờ mắt mẹ đã mờ,Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run”
Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người.
Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người:
“Bao cô gáiBao chàng traiLứa tuổi đôi mươiĐã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộNhững cái tên…ngày nào xanh nhãn vởGiờ xếp hàngĐỏ rực nghĩa trang.”
Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa!
Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu:
“Không thể đem việc đổi xạ - bóp cò,Làm công nghiệp trong thời mở cửa.Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,Nếu chân mình còn nặng đế cao su!”
Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến:
“Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộngSao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ?
Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No?Mà lăn lóc cả đời với đấtTừ mặt trận, mang Cái còn - Cái mấtTrở về làng đánh đổi Cái có - Cái không…”
*****
Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.
Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính.
Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ.
Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh - người lính vô danh, nhà thơ thầm lặng!
Bài thơ rất dài nhưng tôi khuyên bạn nên đọc
KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
Chương 1 : KHÚC DẠO ĐẦU
Thế hệ chúng tôi!Chưa kịp lớn lên,Bom đạn Mỹ xé rách trời, nát đất.Vừa buông nách đứa em bé nhất,Trên đầu mình, Già dặn khoảng trời xanh.
Thế hệ chúng tôi- Thế hệ chiến tranh.Hoa lau trắng những ngày tiễn biệtNgười lên đường - Đất Nước là Tiền tuyếnNgười ở nhà - Tổ quốc hóa Hậu phương
Thế hệ chúng tôi !Ai cũng dễ thương,Thơm thảo như hoa,Ngọt ngào như trái.Tình đồng đội lòng không cỏ dại,Nghĩa đồng bào - Bầu, Bí thương nhau.
Thế hệ chúng tôi con gái cũng “mày râu”Chẻ lạt lợp nhà, đốn cây, bổ củiĐêm trăng lên nhoi nhói câu thầm hỏi:- Mình đàn bà sao bóng tựa đàn ông?
Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồngNhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậyĐời con gái chín dần trong cây gậyRụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.
Thế hệ chúng tôi…Meo mốc bình vôi,Mùa cau lại vàng,Mùa trầu lại đỏ,Mẹ cần chổi gom những mùa lá đổ,Đợi con về …Run rẩy quét thời gian.
Ngôn ngữ Tình Yêuthời của chúng tôi:Một đôi chim bay trên áo gối,Một bông hồng thả hương bối rối,Một khoảng tròn quanh những chiếc khung thêu.
Thế là thươngLà nhớLà yêuLà gánh vác việc nhà người ra trận.Dẫu không hóa làm thân Núi Vọng,Cũng một đời chín đợi, mười trông.
Đêm.Con dâu nằm chung với mẹ chồng,Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ.Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ.Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.
Thệ chúng tôi, Ra ngõ gặp Anh hùng.Đâu cũng thấy hy sinh cho Tổ quốc.Người trước ngã,Người sau không bỏ cuộc.Trận đánh này,Phải TOÀN THẮNG ngày mai …
Ngày maiNgày maiNgày mai…Có thể là gầnCó thể xa vời vợi…Sẽ chẳng tới nếu ta ngồi chờ đợi.Chỉ con đường duy nhất phải vượt lên !Dù ngày mai sẽ chẳng vẹn nguyên,Những cô gái, chàng trai tuổi xuân hơ hớ.Dù ngày mai sẽ bạt ngàn nấm mộ.Những con người của thế hệ chúng tôi.
Mặc gian nan!Mặc đạn bom rơi!Đích phải đến là TỰ DO - ĐỘC LẬP.Là Đất Nước sạch bóng quân xâm lược.Là Bắc - Nam sum họp một nhà.
Mẹ sẽ vuiNgày mai .Khải hoàn ca !Chúng con hát dọc đường về thăm mẹ.Ta tưng bừng,Ta thương người lặng lẽ.BởiMất - Còn, Cũng đến một ngày mai…
Chương hai: KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH
1- ĐƯỜNG VÀO
Đêm đầu tiên,Ngủ giữa rừng câyChúng tôi níu rừng vào hai đầu cánh võng.Chống chếnh thế,Những ngôi nhà của Lính,Gió hướng nào thổi đến cũng thông thênh.Khoảng trời vuông trên mỗi “mái tăng”Không che được hạt mưa xiên xối xả.Đêm đầu tiên nên ai cũng lạ,Giấc ngủ chập chờn như lá rừng rơi …
Anh lính gác hết đứng lại ngồi,Nghe tí tách mưa rơi trên áo bạt;Cách dăm nhà có ai khe khẽ hát.Đêm bỗng òa…Một thoáng nhớ xôn xao …Lại đằng kia có tiếng rít thuốc lào,Đêm vo lại, đỏ lừ mắt điếu.Ước gì có chiếc Hồ lô Kì diệu,Hút Đêm vào cho Lính khỏi chờ lâu…
Đêm không ngủ.Là đêm rất sâu,Lính hóm hỉnh nghĩ ra đủ chuyện.Đứa thì bảo,Võng như hình trăng khuyếtTreo giữa rừng và thức với ngàn cây.Đứa thì bảo, Võng như con thuyền đầy,Chở hờn căm trên dòng sông cạn.Dòng sông ấy là Đường ra Mặt trận.Bao Con Thuyền mải miết vượt bằng chân…Đứa lại nói Võng như cánh cung.Đêm để ngửa, bình minh lên sẽ “úp”Còn Người Lính là mũi tên vun vút,Phút bình minhlà lao thẳng ngực thù!Có đứa láu lỉnh đến lạ chưa?Bảo,Mái Tăng giống như chiếc lọng,Lính xếp bằng ngồi trên cánh võng,Chẳng khác gì Quan Trạng ngày xưa.Thì, bây giờ nào có kém chiKhoa Đánh giặc,đậu nhiều Dũng sĩ.Ngày bái tổ,Ngày Ta thắng Mỹ,Dũng sĩ về còn hơn Trạng vinh qui…
Đêm va vào xoong chảo đằng kiaVỡ từng tiếng.Lanh canh trên bếp lửa…Chúng tôi hiểu,Bình Minh về gọi cửa,Chỉ tích tắc thôi,Nhà Lính dỡ xong rồi.
Chúng tôi lại đi…Náo nức những dòng người.Bình tông nước nối hai đầu Binh trạm.Nắm cơm vắt tòng teng trên lưng bạn,Biết độ đường còn mấy “đoạn dao quăng”.
Gửi Đại Ngàn,những đêm phía sau.Phía Nỗi nhớ cứ dài vào vô tận.Bao gương mặt cỏ cây chưa kịp nhận.Đã vội ào đi trước lúc trời hừng.Để lại những địa danh - Khắc lên cây rừng.Những dấu thời gian còn tươi roi rói.Hàng Lốc lịch treo trên lưng chừng núi.Dọc đường vào Năm tháng cũng vào theo !—-
2. TÂN BINH
Thắc thỏm quá. Trận đánh đầu tiên.Những tân binh chưa thạo bắn.Giặc tràn lênsọc sằn như đàn rắn.Chúng tôi rợn người!Nhắm mắt!Ngồi im…!
Bên chiến hào, người Lính Cựu thản nhiên.Anh thủ thỉ,” Lần đầu, ai chả thế!”Nói cho biết,” Tớ chẳng bằng Cánh Trẻ.Còn tệ hơn. Tè cả ra quần!…”Tôi thoáng nhìn, những cựu quân nhân.Gương mặt các anh như tạc bằng đá núi.Nét phong trần, làn da xẫm lại.Trước chúng tôi. Các anh hóa thiên thần!Bọn giặc ào lên!Mỗi lúc một gần.Lệnh phát hỏa!Chúng tôi ào ào bắn!Những viên đạn xả nòng không cần ngắm …Phía bên nào cũng có tiếng rên la …
Nghe gằn đầy âm thanh AKMà trận đánh tưởng chừng còn rất dữ … Mãi sau này chúng tôi mới rõ,Cánh tân binh,đã bắn phứa lên trời.Rồi trận đánh nào cũng kết thúc thôi.Chỉ huy bảo:“ Chúng ta đã thắng…”Bãi chiến trường ngổn ngang xác giặc.Ta cũng nhiều chiến sĩ hy sinh
Chúng tôi đi tìm Đồng đội của mình.Lóng ngóng quá,Những vòng tay ôm bạn.Người Lính Cựu đã dạn dày bom đạn,Bế đứa này… Rồi bồng đứa kia …
Chàng lính ví mình như Quan Trạng xưa,Một trận thôi đã thành liệt sĩ.Ngày trở về,Ngày Ta thắng MỹAnh chẳng thể làm “Trạng vinh qui”Trước mộ các anh,chúng tôi lặng đi.Nhớ chuyện hôm xưa làm ai cũng khóc…
Hoàng hôn xuống.Đỏ mọng từng con mắt.Đêm nặng đè lên mỗi “cánh cung” …—-
3. TIẾNG CƯỜI CỦA LÍNH
Cuộc đời lính.Đạn trước mặt.Bom trên đầu.Mìn vùi dưới đất …Sống và chết đo bằng gang tấc.Thắng và thua đọ ở sức người.
Có phải thế?Chúng tôi cườiCười chật đấtCười chật sôngCười chật suối…Đường ra trận nào ai tính tuổi ?Nên tiếng cười cứ lẫn cả vào nhau …
Nếu gom được - Xin giữ cho mai sau.Phòng có giặc hãy phát làm vũ khí,Nếu còn sống nhớ mang về quê tớ,Những trận cười rừng rực sức trai …
Những nụ cười hình hoa mơ, hoa maiRụng trăng gốcvẫn khát ngày xây quảNhững nụ cười thấm cả vào máu đổChôn dưới mồvẫn cứ vút bay lên!
Những nụ cười mang hình mũi tênLàm thế trận bủa vây quân giặcNhững nụ cười nối phương Nam - Phương BắcCứ trùng trùng …Theo bước những đoàn quânNhững nụ cười nuôi từ Lòng DânThành sức mạnhKẻ thù nào thắng được?Những nụ cười của Bốn ngàn năm Dựng nước.Hóa thành đồngMuôn thuởViệt Nam ơi!
Những nụ cười làm khô giọt lệ rơi.Ngày TOÀN THẮNG nếu con không về nữaMẹ lắng nghe trong từng làn gióCó tiếng cười của đứa con yêu …
4. THI SĨ
Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dàiPhút khuây khỏaLàm thơ trên báng súng.Đời chẳng tĩnhNên câu thơ quá động.Lục bát trèoLên võngĐung đưa…
Có phải vì quen với nắng mưaNên câu thơ biết xòe ô cho bạn?Có phải quanh mình ùng oàng bom đạn,Nên trong thơkhao khát một nụ hồng!
Có phải vì thương,vì nhớ cháy lòngNên lửa cứ bập bùng nơi ta viết?Có phải vì anh yêu da diếtNên bài nào cũng nói về em?
Chẳng tài đâu!Làm mãi rồi quenNhư đánh giặc lâu ngày thành lính cựu.Trước cuộc sốngBao cái Hùng tề tựuDẫu chẳng là Thi Sĩ …Cũng Thơ!
Ẫy là nói những đứa ngu ngơChứ thế hệ thì thiếu gì đứa giỏi.Đánh giặc cừLàm thơ cũng sõi,Dũng Sĩ và Thi Sĩ rất xứng danh.
Đêm bồi hồi bên cánh rừng xanhNáo nức quá!Nghe Chương trình văn nghệ“ Thơ Chiến sĩ ”?Sao nhạc buồn đến thế?Lính nhớ nhà…càng nhớ nhà hơn!
Ơi!Tiếng đàn bầuNỉ nonNỉ non…Đem thân phận thả vào đêm chiến trậnNày Cung Nhớ!Này Cung Thương!Này Cung Hờn!Này Cung Hận!Hỏi cung nào Người Lính chẳng từng qua ???——
5. ĐÓI
Trận đánh này. Chúng tôi giữ điểm cao,Quần cả tháng,lương ăn không còn nữa!Giặc vây chốt đông như đàn kiến lửaPhía chúng tôi … Còn lại mấy đứa thôi.
Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi,Cái sợ nhất lúc này là đói.Đói vàng mắt,Đói long đầu gối,Đói phạc phờ,Đói thừa cả chân tay…!Mà lạ chưa?Vào chính lúc này,Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.Có lẽ vì chẳng cách nào khác được!Có lẽ vì… Còn - Mất đó thôi…Phía chân đồi, giặc đã rút rồi.Cái Đói lại xông lên ngợp chốt.Không thể bắn,Và cũng không thể giếtMuốn cầm hòa…Cái Đói Chẳng buông tha !
Đồng đội tôi gục xuống giữa chiều tà…Gạo vừa tới, cơm còn đang nấu dởBoong canh rừng lục bục sôi trên lửaBạn đi rồi… Chẳng kip bữa cơm no !Ôm xác bạn chúng tôi khóc hu hu!Người đói chết trên tay người đói lảChôn bạn xong… Đói tràn lên cỏTôi cầm cành cây, đói lả trước mồ …
Chúng tôi thường cúng bạn cả nồi toCơm đấy, canh đấy… Bạn ăn đi khỏi đói !
Sống giữ chốtChết thành ma đóiĐêm đứt rời … Bởi những cơn đau….
6. TIẾN VỀ THÀNH PHỐ
Từng trận đánh,cứ nối tiếp nhauNhư mùa lũ ngập dần đôi bờ đấtTừng chiến dịch mở bung mặt trậnNhư gió ngàn ồ ạt thổi võng thung.
Mùa mưa đi qua.Khô khát những cánh rừng.Cây trút lá bên đường tơi tả.Đất như choàng tấm chăn màu đỏ.Những nấm mồ đồng đội rực lên!
Tiến về Sài gònTừ khắp nẻo Trường Sơn.Đại bácXe tăngChuyển rung thành phốRầm rập những Binh đoànÀo ào thác đổCả nước dồn vềTrùng điệp quân đi.
Các hướng tấn côngThần tốc - diệu kỳNgày mai hiện dầnBằng xươngBằng máuNgày mai sẽ vềGang tấc nữa thôi!
Gang tấc nữa thôi!Cờ giải phóng tung bay dinh Độc LậpTổ quốc tưng bừng niềm vui thống nhấtChúng con sẽ vềBên mẹMẹ hiền ơi!
Gang tấc nữa thôi!Ác liệt lại ngàn lần ác liệtSào huyệt cuối cùngSào huyệt lửa bung ra.Máu Người Lính đã thấm rừng già,Nay lại đổ dọc đường vào Thành Phố !Người lính cựu,Mang nửa đời chữ thọ,Có ai ngờ!Ngã xuống,Trước ngày mai.
Chúng tôi nghiêm trangĐứng trước thi hàiNgười Đồng đội,Người Anh,Người Thầy trong trận mạc.Giữa Sài Gòn - 30 THÁNG TƯ.
Chương ba: SAU CHIẾN TRANH
1. LÀNG XƯA
Giặc tan rồiChúng tôi trở về quêBồi hồi quá!Những bàn chân línhChiếc ba lô trên lưng nhẹ tếchChỉ nặng nhiều là mấy búp bê.
Khao khát gì mà bồng bế thế kia?Hay ở rừng lâu ngày không bóng trẻ?Ngoài mặt trận nào ai thành bố - mẹTìm đâu ra tiếng bé khóc chào đời.
Hay tuổi xuân tatrầm bổng cuối trời?Như hạt mưa sa xuống vườn đồng độiHay vì thương câytháng năm ngóng đợi? Mùa hoa về cho tươi lại cành xanh.
Thôi!Gác lại một thời chiến tranh,Ào về nơi chôn nhau, cắt rốn.Để ngắm MẹCho hả hê nỗi nhớ.Để nhìn ChaCho đã buổi thương Người.
Để được gặp,Nàng mặc áo nâu tươiKhoe với Em rằng: chỉ thêu vẫn thắm,Rằng: hai đứa chẳng còn xa ngàn dặm,Rằng: hôm nay thuyền đã cập bến rồi.
Đây mái nhà tuổi thơ của tôi.Đây bậu cửa chắn ngang thời lẫm chẫm.Đây hình vẽ ngu ngơ thời chấy rận,Màu than đen còn nhánh đến bây giờ.
Đây hàng cau cha trồng từ ngày xưa.Rụng đỏ đất…Những mùa đành để lỡ.Đây vườn trầu mẹ ươm hồi ta nhỏ,Rơi vàng trờinhư thể khát tìm cau.
Đây con đường nối sang nhà nhau.Bên ấy, bên nàyđi về một ngõ.Đêm.Họp Đoàn cùng chung đuốc tỏ,Ta soi cho Em về tới sân nhà.
Đây xóm làng lam lũ của ta.Những bữa cơm còn đầy mâm rau má.Người ra trận vẫn mang manh áo vá.Trẻ tới trường, quyển sách đọc thay nhau.
Mùa đông về chăn chưa đủ ấm đâu,Mùa hạ đến chẳng đủ màn ngăn muỗi.Ta gặp ai cũng già trước tuổi.Biết: Hy sinh đâu chỉ ở chiến trường!
Ơi! Xóm làng mà ta gọi Quê hương,Người ra trận đông hơn người ở lại,Đã kín vách BẢNG VÀNG DANH DỰ,Giờ lại nhiều BẰNG TỔ QUỐC GHI CÔNG.
Bao hố bom chằng chịt trên đồng,Nghe lành lạnh tiếng cá cờ búng nước.Hiểu hạt gạo nuôi quân ngày chiến cuộc,Đã chan hòa, Máu với Mồ hôi.
2. MẸ
Con về với Mẹ hôm nayThật đây! Sao Mẹ tưởng ngày…mình mơ.Bây giờ mắt mẹ đã mờ,Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run.
Như là để thật tôi hơnMẹ rờ vết sẹo vai con ngày nào.Nhận ra, mắt Mẹ lệ tràoRưng rưng…vào khoảng khát khao con về.Và tôi cứ thế lặng điTrước pho Tượng Phật từ bi giữa nhà.
Mấy năm đánh giặc đường xaChẳng ngờ đâu Mẹ tôi già thế kia?Hàm răng đen nhánh ngày xưaĐi đâu vội,để nắng mưa cối trầu?Hạt sương kéo sợi trên đầuBảo tôi: Đời Mẹ dãi dầu đấy thôi.Mắt huyền xưa buộc Cha tôiBây giờ,Mẹ buộc lá rơi ngoài thềm.Mỏng manh chiếc áo vải mềm,Tuổi thơ tôi để trong nền yếm nâu.Yếm Người nào có rộng đâu.Mà sao như thửa đất giàu mênh mông…Ở đây cũng thể Thành đồngỞ đây nuôi những Anh hùng nước non.Yếm vuông cho giọt sữa trònĐọng trong mỗi dấu chân con tháng ngày.
Con về với Mẹ hôm nayThật đây! Sao Mẹ tưởng ngày mình mơ!Mẹ tôi giờ, mắt đã lòaNhìn tôi bằng ngón tay già… rưng rưng…
3. MẶT TRẬN KHÔNG TIẾNG SÚNG
Chúng tôi về với việc nhà nông,Đông hơn cả, Vì đồng rộng lắmNhững người lính một thời chiến trậnGiờ lại về cuốc bẫm cày sâu.
Ruộng có bờ, Việc chẳng có bờ đâuBuổi lật cỏ đã lo ngày bắc mạ.Gieo trên đất những mầm vui hối hả,Những lo toan, thắc thỏm, trông chờ.Tưởng đã quen rồi, sao vẫn gặp bất ngờ?Bất ngờ hạn - mặt đồng khô như ngói.Bất ngờ úng - lúa chìm trong tê tái.Bất ngờ sâu - đau thắt ruột người trồng.
Cấy cây lúaLà cấy phận nhà nông.Xòe bàn tay tính từng ngày, từng tháng.Mặt trời lênđến thâu đêmlại sáng.Bóng người còng,mơ…lúa tròn bông.
Hạt gạo dẻo thơm? nào dễ hiểu đồng,Khi chưa có một lần với lúa.Khi cuộc đời lượt là trong nhung lụa,Đã chắc gì hiểu nổi bát cơm bưng ?Đã chắc gì biết cái rét cuối đông?Chân mẹ nẻ ngậm bùn rét giá.Đã chắc gì biết những chiều nắng hạ?Áo cha dầy thêm mỗi bận mồ hôi.
Về với đồng mới hiểu hết đồng ơi! Bát cơm chan mồ hôi - nước mắtLại có chuyện… những người khuất tấtLại bão giông… rình rập trên đầu…
Ta đã qua dài rộng rừng sâu,Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc,Mà bây giờ trước đồng, trước ruộngSao ta đi, đi mãi… chẳng đến bờ?
Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No?Mà lăn lóc cả đời với đấtTừ mặt trận, mang Cái còn - Cái mấtTrở về làng đánh đổi Cái có - Cái không…
Phải vượt lên thôi! Mình tự cứu mình.Than phận làm gì cho thêm yếu lính?Đất Nước chiến tranh ra đi đánh giặc.Đất Nước hòa bình, tất cả dựng xây.Nào tập đi!Cho thẳng những đường càyCho con trâu khỏi nhắc người: vắt - diệtCho vụ mùa gối tiếp nhau mải miếtCho đồng làng bông lúa gọi : đời no!
Nào học đi! Ta mới chỉ i tờ.Nghề nhà nông còn bao điều mới lạ,Muốn xênh xang từ cọng rơm, gốc rạ.Phải hiểu đồng,như hiểu chiến trường xưa.
Ta đã nghe !Nhiều đồng đội gần, xaBát ăn đủ rồi, giờ thêm bát để.Đã rộng cửa nhà,Đã yên dâu - rể,Đã ông - bà… còn rất lính mà Em!
Ta lại nghe.Từ phía mặt trời lênTiếng tần tảo gõ vang đường xuống chợNhững mảnh vườn cho mùa chín đỏThơm chật gùi…Đồng đội địu trên lưng.
Và đằng kia, trên khắp nẻo núi rừng,Bao trang trại mở đường vào giàu có.Nhiều người lính đã thành ông chủ.Cũng đình huỳnh xe máy hon đa.
Vườn-Ao-Chuồng xây cất Vi la,Ai bảo lính không biết làm kinh tế?Bao doanh nghiệp tư nhânBao nhiêu nhà tỷ phúCũng đều từ những Cựu Chiến binh.
Ta dõi theo vóc dáng những công trình.Bao người lính trở về xây thủy điệnĐời lại thắp những NGỌN ĐÈN trước biểnSóng gầm gào…Đèn vẫn sáng lung linh.
Ấy là khiTa tự biết vượt mìnhTrước cuộc sốngCó bao điều Cầu ước.Nếu được ướcXin ước cho tất cảĐừng hóa mình xa lạ với Nhân Dân.
Chương 4: HỒI TƯỞNG
Thế hệ chúng tôi, Đi qua Chiến Tranh.Đời mỗi đứa là một thời để nhớVề đồng đội, Về những ngày khói lửaVề những hy sinh,… không nói hết bằng lời.
Bao cô gáiBao chàng traiLứa tuổi đôi mươiĐã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộNhững cái tên…ngày nào xanh nhãn vởGiờ xếp hàngĐỏ rực nghĩa trang.
Có những hy sinhÂm ỉ với thời gianNgười trở về trên mình đầy thương tíchChiếc nạng gỗ gõ dọc chiều cơn lốcHiểu con đường đang chín giọt mồ hôi.
Có đứa về lành lặn hẳn hoiNào ai hay?Chất độc vùi trong bạnLúc làm cha mới biết mình trúng đạnVết thương - Là con anh.
“Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!”Bài hát gọi ta về quân ngũ.Cuộc sống Lính có khi nào đầy đủ?Thiếu thốn nhiều nên cũng phải quen đi!
Cũng phải quen. Như thể chẳng thiếu gìVì khi ấy chiến trường cần phải thế!Ngày trở về Ta không còn trai trẻ.Giữa đời thường cái thiếu lại thiếu thêm.
Những hy sinh không thể bắc lên cân.Càng không thể quy thành tem phiếu.Những người lính có bao giờ định liệuCái giá mình trước Tổ Quốc, Nhân Dân!
“Vì Nhân Dân quên mình!Vì Nhân Dân hy sinh!”Lẽ sống ấy làm nên Nhân cách Lính.Ngay cả khi mình không mang quân phục, Nhưng Lính thì chẳng lẫn với ai đâu?
Không biết người ta sống mai sau,Có đời hơn thời chúng tôi đang sống?Rồi đến lúc phải quên đi tiếng súng,Ta vẫn tin!Đồng đội chẳng quên nhau!
Nhân Dân mình sống có trước có sau.Cứ nhìn những Nghĩa trang, những Tượng đài thì biết.Và cả những Tượng đài thơm hương tha thiết,Cho người sống,Cho người cònmà chết tuổi thanh xuân.
Nếu Cuộc đời biết vì Nhân DânThì Nhân Dân cũng vì ta năm tháng.Như mặt trời cho cỏ cây nguồn sáng,Cỏ cây nào chẳng cho đất những mùa hoa?
Bom đạn tạnh đi rồiChiến tranh đã lùi xa!Cuộc sống mới bảo chúng tôi đổi mới!Không thể đem những ngày lửa khóiGiữa thị trường đánh đổi lấy ấm no!
Không thể đem việc đổi xạ - bóp cò,Làm công nghiệp trong thời mở cửa.Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ,Nếu chân mình còn nặng đế cao su!
“Vì Nhân Dân quên mình! Vì Nhân Dân hy sinh!”Bài ca ấy đã trở thành lẽ sống!Chúng tôi hát từ buổi tò te lính.Đến bây giờ vẫn hát- Những Cựu binh.
Lê Anh QuốcThị xã Yên Bái - Tháng 1-2000