Sách Ngữ văn 10 của bộ Kết nối tri thức với cuộc sống biên soạn theo Chương trình giáo dục phổ thông môn Ngữ văn 2018, gồm 9 bài học, được tổ chức theo trục thể loại. Vẻ đẹp của thơ ca (bài thứ hai), có 5 văn bản đọc, gồm 3 bài thơ hai-cư, 1 bài thơ Đường và 1 bài Thơ mới 1932 - 1945. Nhóm biên soạn có chủ đích cho học sinh (HS) lớp 10 tiếp cận với những bài thơ xuất sắc thuộc các loại hình thơ khác nhau. Cho nên, không phải ngẫu nhiên Thu hứng của Đỗ Phủ đã có mặt ở bài học này. Đây là tác phẩm tiêu biểu của thơ Đường - một giai đoạn rực rỡ của thơ ca Trung Quốc, khá quen thuộc với nhiều thế hệ học sinh vì luôn được chọn đưa vào sách Ngữ văn ở các thời kì.
Thu hứngNgọc lộ điêu thương phong thụ lâm, Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm. Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng, Tái thượng phong vân tiếp địa âm. Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ, Cô chu nhất hệ cố viên tâm. Hàn y xứ xứ thôi đao xích, Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.
Dịch nghĩa:Cảm xúc mùa thu Sương móc trắng xóa làm tiêu điều cả rừng cây phong, Núi Vu, kẽm Vu hơi thu hiu hắt. Giữa lòng sông, sóng tung vọt trùm bầu trời, Từ trên cửa ải, gió mây sà xuống khiến mặt đất âm u. Khóm cúc nở hoa đã hai lần làm tuôn rơi nước mắt ngày trước, Con thuyền lẻ loi thắt chặt mãi tấm lòng nhớ về vườn cũ. Chỗ nào cũng rộn ràng dao thước để may áo rét, Về chiều, từ trên thành Bạch Đế cao, tiếng chày nện vải nghe càng dồn dập.
Dịch thơ: Bản dịch 1 Lác đác rừng phong hạt móc sa, Ngàn non hiu hắt, khí thu lòa. Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm, Mặt đất mây đùn cửa ải xa. Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ, Con thuyền buộc chặt mối tình nhà. Lạnh lùng giục kẻ tay dao thước, Thành Bạch, chày vang bóng ác tà. (Nguyễn Công Trứ dịch, Ngữ văn 10, tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2014, tr. 146) Bản dịch 2 Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy, Vu sơn, Vu giáp khí thu dày. Lòng sông sóng tận lưng trời nhảy, Đầu ải mây sà mặt đất bay. Lệ cũ nở hai mùa cúc đó, Lòng quê buộc một chiếc thuyền đây. Nơi nơi áo lạnh đòi dao thước, Bạch Đế thành hôm rộn tiếng chày. (Khương Hữu Dụng dịch, Thơ Đỗ Phủ, NXB Văn học, Hà Nội, 1962, tr. 229)
Đỗ Phủ (712 - 770) tự Tử Mỹ, hiệu Thiếu Lăng, người tỉnh Hà Nam, sống long đong vất vả, những năm cuối đời phải phiêu dạt nhiều nơi và cuối cùng chết trên một con thuyền ở Hồ Nam - một vùng đất khách, xa quê nhà. Đỗ Phủ từng được mệnh danh là “nhà thơ của dân đen” vì ông đã chịu những khổ ải, trầm luân cùng người dân trong những năm chiến tranh loạn lạc, thấu hiểu nỗi niềm của những con người dưới đáy xã hội và thể hiện rất chân thực trong thơ. Điều này làm cho thơ ông rất giàu tính hiện thực. Người xưa đã tôn vinh Đỗ Phủ là bậc “thi thánh” (bên cạnh “thi tiên” Lý Bạch và “thi Phật” Vương Duy). Những sáng tác của ông đã góp phần quan trọng đưa thơ ca Trung Hoa vào một giai đoạn phát triển “vô tiền khoáng hậu”. Cống hiến nổi bật nhất của ông là làm cho thơ ca đi vào đời sống nhân dân, mang hơi thở của thực tế cuộc sống - điều hiếm thấy ở sáng tác của các nhà thơ cùng thời. Ngoài ra, ông còn được biết đến như một nhà thơ cảm hoài sâu sắc, thường cất tiếng than về thân phận mình và về cuộc đời dâu bể. Phong cách thơ Đỗ Phủ, đặc biệt trong thơ luât, là phong cách trầm uất, biểu hiện ở giọng điệu bi thương, đầy giằng xé, mâu thuẫn, phức tạp, dồn nén tối đa, với số lượng ngôn từ ít ỏi nhưng thâu tóm được tinh thần thời đại. Nét riêng này khiến thơ ông không lẫn với tác phẩm của bất cứ nhà thơ nào khác.
Để hiểu Thu hứng, không thể không chú ý hoàn cảnh sáng tác đặc biệt của nó. Ta biết rằng, đời Đường là một thời kì thịnh trị của Trung Quốc, trải 3 giai đoạn Sơ Đường, Thịnh Đường, Vãn Đường. Nhưng sau sự biến An Lộc Sơn - Sử Tư Minh (755 - 763), đất nước Trung Quốc chìm ngập trong cảnh loạn li, gia đình Đỗ Phủ cũng không thoát ra ngoài khủng hoảng xã hội ấy. 11 năm cuối đời ông là 11 năm chạy loạn lênh đênh khắp các tỉnh miền Tây Nam (Cam Túc, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam). Năm 706, lúc đã trên 50 tuổi, ông đến Quý Châu (Tứ Xuyên). Ở đây, giữa núi non, cách xa cảnh náo động, ít bạn bè, ông dành thời gian ôn lại cuộc đời mình. Chùm Thu hứng gồm 8 bài (Thu hứng bát thủ) viết trong năm thứ 2 ông sống ở vùng này. Hoàn cảnh sáng tác đã in dấu rõ nét trong bài thơ, cho thấy chất hiện thực đậm đà của thơ Đỗ Phủ.
Bài thơ có nhan đề Thu hứng (thu: mùa thu, hứng: cảm xúc). Cảm xúc được tích chứa, dồn nén, bật ra thành lời thơ. Qua nhan đề, thấy được đề tài thơ. Mùa thu vốn là một đề tài quen thuộc của thơ ca Trung Quốc. Vậy điều gì đã khiến Thu hứng trở thành một kiệt tác thi ca trong vô số bài thơ thu của người xưa? Giá trị đích thực của bài thơ là ở đâu?
Đây là bài đầu tiên trong chùm thơ Thu hứng bát thủ, gần như khái quát, hàm chứa tinh thần bảy bài còn lại.
Trong quan niệm của các nhà thơ đời Tống, một bài thơ Đường luật thường có bố cục bốn phần: đề - thực - luận - kết. Tuy nhiên, đời Đường, các nhà thơ sáng tác một cách tự nhiên, chưa định rõ các phần. Trong một bài thơ thất ngôn bát cú Đường luật, tiêu đề và các câu thơ thường có mối liên kết chặt chẽ. Thu hứng có sự thống nhất, người ta gọi là “nhất khí” (hơi thơ nhất quán, liền mạch), cả bài thơ là một thế giới, một vũ trụ nhằm biểu đạt “tiểu vũ trụ” - lòng người.
Thu hứng được nhiều người dịch sang tiếng Việt, với mức độ thành công khác nhau. Sách Ngữ văn 10 cung cấp hai bản dịch (một của Nguyễn Công Trứ, một của Khương Hữu Dụng - đều là những nhà thơ tài hoa, am hiểu thơ Đường). Đây là cơ sở để HS đối sánh, tìm ra những nét tương đồng trong cách chuyển ngữ bài thơ.
Nhan đề Thu hứng cho thấy tác phẩm phải thể hiện một cách nhìn mùa thu, từ cách nhìn ấy, thi nhân biểu đạt nỗi lòng mình.
Bức tranh mùa thu
Cả bài thơ là một bức tranh thu. Mùa thu trong Thu hứng cũng có những hình ảnh quen thuộc, từng xuất hiện trong thơ thu của các tác giả khác: rừng phong, cửa ảỉ, hoa cúc, con thuyền… Nhưng từ những thi liệu có tính ước lệ ấy, ông đã tạo nên sắc thái riêng.
Hình ảnh rừng phong trong câu thứ nhất gợi không gian thu mênh mông, trống vắng, úa tàn. So với câu dịch của Nguyễn Công Trứ (Lác đác rừng phong hạt móc sa) cách dịch của Khương Hữu Dụng sát nguyên tác hơn (Móc trắng rừng phong vẻ úa gầy). Phải là dày đặc, trắng xóa (chứ không phải lác đác) sương mới khiến rừng phong trở nên tiêu điều. Trong câu thơ dịch của Khương Hữu Dụng, rừng phong không phải là trạng ngữ chỉ nơi chốn mà là đối tượng bị sương móc vùi dập một cách tàn nhẫn. Như vậy, rừng phong ở đây không còn mang tính ước lệ quen thuộc của Đường thi, mà là hình ảnh thực, bật ra từ cảm nghiệm của nhà thơ. Vẻ bi thương mà hình ảnh ấy gợi ra cũng là nỗi niềm đích thực của nhà thơ trong cảnh ngộ cụ thể.
Câu thứ hai được Nguyễn Công Trứ dịch Ngàn non hiu hắt khí thu lòa. Dịch như thế, hình ảnh có tính khái quát, câu thơ dễ hiểu, song phần nào nào làm mờ đi nét cá biệt của cảnh sắc. Vu sơn, Vu giáp khí thu dày (cách dịch của Khương Hữu Dụng) sát với nguyên tác hơn. Vu sơn, Vu giáp gợi một không gian xa xôi hiếm trở, nơi nhà thơ dừng bước trong những ngày loạn li. Đây là những địa danh có thực, gắn với cuộc sống của nhà thơ trong những ngày gian khổ. Nó đã đi vào thơ Đỗ Phủ như một niềm ám ảnh khôn nguôi. Các từ ngữ điêu thương (tiêu điều, thương tổn) tiêu sâm (ảm đạm, tối tăm) với sắc thái nghĩa tương đồng, có tác dụng tô đậm ấn tượng về một cảnh thu hiu hắt, hoang vắng, phù hợp với trạng thái tâm hồn của thi nhân trong không gian và thời gian ấy.
Hai câu thơ tiếp theo, sự vận động của mùa thu đã được khắc họa thật sắc nét, cụ thể, tỉ mỉ. Nguyễn Công Trứ đã dịch rất hay (Lưng trời sóng rợn lòng sông thẳm/ Mặt đất mây đùn cửa ải xa). Trong bức tranh thu có hình ảnh núi sông, quan ải, bao quát không gian rộng lớn với những xáo động dữ dội, tạo nên một khung cảnh hoành tráng, hùng vĩ. Ta tưởng tượng: sóng thì tung vọt lên không trung, mây trên cao thì lan tràn bao phủ mịt mù phong tỏa cả mặt đất, dường như cảnh vật có sự va đập, dồn nén, xâm chiếm, đối chọi nhau dữ dội. Chỉ trong hai câu thơ bảy chữ, tác giả đã bao quát được cả càn khôn, gồm bề cao lẫn bề rộng của đất trời. Bút pháp hiện thực sắc sảo được nhà thơ sử dụng tài tình, làm hiện lên bức tranh vùng đất Quỳ Châu thượng nguồn sông Trường Giang vô cùng hiểm trở.
Bức tranh mùa thu còn trở nên rất phong phú với khóm cúc, con thuyền - những hình ảnh vừa rất quen thuộc trong Đường thi, vừa gần gũi với đời sống thường nhật. Mùa thu không chỉ hiện lên qua loại hình ảnh thị giác, mà còn bằng hình ảnh âm thanh: những tiếng dao kéo của người thợ may áo rét, tiếng chày đập áo của người giặt giũ trên bến sông, đầy sức gợi.
Cả bài thơ là một bức tranh thu rất riêng, rất Đỗ Phủ, mùa thu ở Quý Châu, Tứ Xuyên - một miền đất cụ thể, có cả sắc thu, tiếng thu, được tạo nên bằng những nét chấm phá, thần tình. Bức tranh thu ấy vừa hoang sơ, tiêu điều, vừa hùng vĩ, dữ dội, với sự chuyển vần mãnh liệt. Đằng sau thế giới ấy là cả một bầu tâm sự, một cõi lòng. Đây cũng là một nét đặc trưng của thi pháp thơ Đường: qua cái cụ thể, thấy cái vô hình, qua cảnh hữu hạn thấy tình thẳm sâu, vô biên.

Cảm xúc, nỗi lòng của nhà thơ
Cảm xúc, nỗi lòng nhà thơ được bộc lộ ngay trong bức tranh thu. Với thơ Đường, thiên nhiên là cái nền, trên đó, tâm tình nhà thơ được bộc lộ. Cụ thể ở đây, trong cảnh rừng phong, cửa ải, mây nước, ta cảm nhận được thế giới tâm hồn của chủ thể trữ tình. Giữa cảnh thu, ta bắt gặp con người - con người nhỏ bé, cô đơn giữa không gian mênh mông, rợn ngợp. Nhà thơ đặt cái hữu hạn của con người cạnh cái vô hạn của thiên nhiên. Vũ trụ, thiên nhiên có sự chuyển vần mãnh liệt như thế hình như đã tạo nên một sự dồn ép, một tâm lí ngột ngạt bất an ở con người. Con người ngày xưa, nhất là con người trong thơ cổ, ưa sự tĩnh tại, rất sợ thay đối. Vậy phải chăng cảnh đảo lộn của đất trời Quý Châu là dáng dấp của một xã hội Trung Hoa loạn li sóng gió đương thời, mang đến bao nỗi niềm, bao cảm xúc âu lo cho kẻ tha hương?
Nỗi niềm tha hương ấy được nhà thơ tập trung gửi gắm trong hai câu luận: Khóm cúc tuôn thêm dòng lệ cũ/ Con thuyền buộc chặt mối tình nhà (Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ/ Cô chu nhất hệ cố viên tâm). Ở nguyên tác, hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, mỗi câu hai vế, các hình ảnh song hành, đối chọi, đầy sức gợi. Tùng cúc lưỡng khai (khóm cúc nở hai lần), cũng là thời gian hai năm ở nơi đất khách. Nếu trong những câu thơ trước, con người được đặt trong không gian thì đến đây con người được đặt vào dòng chảy của thời gian. Hình ảnh khóm cúc nở hoa hai lần đã diễn tả được thời gian hiện tại chồng lên thời gian quá khứ bằng phép đồng hiện - một sáng tạo độc đáo của nhà thơ. Tha nhật lệ (giọt nước mắt của ngày khác) có thể hiểu là nước mắt của ngày đã qua, của ngày đang tới, của quá khứ, của tương lai. Ta có thể hình dung ra nhà thơ đứng ở hiện tại, cảm hoài quá khứ và lo âu về tương lai, một tương lai mịt mờ, vô định.
Đọc hai bản dịch thơ, ta thấy dường như có một điều rất quan trọng của thơ Đường chưa được thể hiện. Câu thơ Đường thường có cú pháp độc lập, đơn giản; các câu thơ đứng song song bên nhau, ngỡ tách biệt, nhưng thực chất chúng có quan hệ ngầm, tinh tế. Chẳng hạn, câu thơ Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ có thể đưa đến cho ta những liên tưởng:
- Khóm cúc nở như những giọt nước mắt tuôn rơi.
- Khóm cúc nở làm nước mắt cũng rơi, nước mắt của quá khứ, nước mắt của tương lai, nước mắt của mình khóc cho cuộc đời lưu lạc của mình và không biết còn phải khóc đến bao giờ nữa.
- Đặt hai hình ảnh, hai vế Tùng cúc lưỡng khai và tha nhật lệ ở cạnh nhau, tác giả gợi ý cho người đọc những mối liên hệ cụ thể: ở đây khóm cúc là cõi lòng đã được ngoại hóa, được khách quan hóa, nghĩa là hình ảnh khóm cúc cụ thể đã được khúc xạ qua cõi lòng, nó chuyên chở tâm trạng buồn bã, nhớ nhung về quê cũ của nhà thơ một cách tinh tế, đầy ám ảnh.
Câu thơ tiếp Cô chu nhất hệ cố viên tâm cũng sử dụng thi liệu quen thuộc, con thuyền là hình ảnh thường gặp trong thơ Đường (Thuyền qua muôn núi nhẹ như bay - Lý Bạch). Khác với con thuyền trôi trên sông với đầy vẻ phóng khoáng, hào sảng, bay bổng của thi tiên họ Lý, con thuyền của Đỗ Phủ là con thuyền tĩnh tại một cách bị động - bị buộc một mối ở bến sông (Cô chu nhất hệ). Trong câu thơ này, cố viên tâm - lòng nhớ nơi vườn cũ - có thể coi là “nhãn tự” của bài thơ. Cố viên (vườn cũ) là nơi chôn rau cắt rốn, là quá khứ tươi đẹp, là quê hương bản quán trong những ngày yên ả thanh bình. Lòng hướng về vườn cũ có thể hiểu là hướng về sự vững bền, bình an trong tâm hồn, điều mà những kẻ tha hương luôn khao khát.
Phải chăng nhà thơ hướng về quá khứ còn vì đau khổ trước thực tại và lo âu cho tương lai? Như vậy, cố viên tâm (lòng hướng về nơi vườn cũ) đã chi phối toàn bộ cách nhìn ngoại giới (chi phối không gian, chi phối khóm cúc, con thuyền…). Đây chính là cốt lõi của cảm xúc của bài thơ. Nếu không có cố viên tâm, tất cả các chi tiết trong bài chỉ là những hình ảnh đơn lẻ, rời rạc, không mấy ý nghĩa. Nhờ nhãn tự, cả bài thơ có sự liên kết chặt chẽ thành một khối thống nhất, cả ngoại cảnh và tâm cảnh, tác động mạnh mẽ tới tâm hồn người đọc. Sự phát sáng của “nhãn tự” trong một bài thơ luật Đường chính là chỗ này. Từ góc nhìn ấy, câu thơ gợi nhiều liên tưởng:
- Con thuyền bị buộc ở bến sông cũng như lòng mình bị giam hãm nơi đất khách mà vẫn khôn nguôi nỗi nhớ về quê hương.
- Con thuyền này biết bao giờ mới được rời bến, bao giờ đưa ta về quê cũ, nơi lòng ta vẫn hằng khắc khoải.
- Sợi dây ràng buộc con thuyền ấy cũng là sợi dây ràng buộc lòng mình, bao giờ mới được cởi bỏ? Đây chính là ước vọng về quê hương, ước vọng thanh bình…, và trong lòng mỗi chúng ta, tùy vào độ trải nghiệm cuộc sống, những mối liên tưởng cứ mở ra bát ngát.
Hai câu thơ Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ/ Cô chu nhất hệ cố viên tâm được người đời sau coi là “danh cú”, có giá trị đặc biệt. Có thể khẳng định điều ấy, vì nhà thơ đã đồng nhất được nhiều sự việc và hiện tượng chỉ trong mười bốn chữ ít ỏi:
- Đồng nhất tình và cảnh (cúc nở - dòng nước mắt khổ đau).
- Đồng nhất hiện tại - quá khứ - tương lai (giọt lệ của hiện tại cũng là giọt lệ của quá khứ và không biết còn phải khóc đến bao giờ).
- Đồng nhất sự vật và con người (sợi dây buộc thuyền cũng là sợi dây thắt lòng người).
Từ các hình ảnh có tính đồng nhất ấy, ta nhận ra một tâm hồn đau khổ trong cảnh phiêu tán bởi chiến tranh, loạn lạc mà vẫn khôn nguôi khát vọng về một cuộc sống thanh bình, yên ổn nơi quê hương.
Trong mạch cảm xúc ấy, bài thơ có một kết thúc thật bất ngờ. Thông thường trong thơ Đường, phần kết thường thu ngoại giới về nội tâm, khép lại ngoại cảnh mà mở ra nội tâm. Nhưng ở Thu hứng, hai câu kết lại quay về tả cảnh thực ngoài đời. Đây là nét lạ của thơ Đỗ Phủ.
Cả bài thơ đầy sắc thu, đến đây tiếng thu xuất hiện: Hàn y xứ xứ thôi đao xích/ Bạch đế thành cao cấp mộ châm. Tiếng chày đập áo vang vọng cả không gian; màu sắc và âm thanh của cảnh vật hợp lại trong một bức tranh, tất cả không ra ngoài chữ THU - biểu hiện của sự nhất khí, liền mạch, nối kết một cách tinh tế. Âm thanh dao thước, chày… hết sức quen thuộc của mùa thu phương Bắc, nó nối dài mạch tả của toàn bài, hướng về cuộc sống sinh hoạt đời thường. Âm thanh dồn dập ở thành Bạch đế mở ra không gian cao rộng mênh mang, gợi những xáo động, nôn nao, khắc khoải trong lòng người lưu lạc, liền mạch với cảm xúc của các câu thơ trên.
Phần kết của bài thơ thể hiện sự nhất quán trong phong cách thơ Đỗ Phủ: không đóng kín, khép mình trong những ưu tư của cá nhân mà mở lòng lắng nghe, đón nhận những vang động của cuộc đời. Nhờ vậy, tính hiện thực trong thơ ông trở nên hết sức đậm đà. Xưa nay có rất nhiều bài thơ viết về mùa thu, nhưng Thu hứng của Đỗ Phủ vẫn luôn được xem là một kiệt tác lưu danh thiên cổ, có lẽ vì điều đó.
Nguyễn Thị Quỳnh An