So sánh, đánh giá hai bài thơ “Đất Nước” và “Việt Bắc”

Trong hành trình học văn, việc tìm hiểu và so sánh các tác phẩm là cách hiệu quả để cảm nhận chiều sâu của thơ ca cách mạng. Bài viết trên Thích Văn Học sẽ cùng bạn phân tích và so sánh cảm hứng về đất nước trong hai tác phẩm nổi tiếng: Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Việt Bắc của Tố Hữu. Từ đó, học sinh có thể hiểu rõ hơn phong cách sáng tác của từng nhà thơ, đồng thời bồi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước qua những vần thơ giàu cảm xúc.

Đề bài

So sánh, đánh giá cảm hứng về đất nước trong hai bài thơ “Đất nước” (Nguyễn Đình Thi) và “Việt Bắc” (Tố Hữu)

Bài làm

Vẻ đẹp của đất nước từ lâu đã hiện hữu trong dòng chảy bất tận của văn học dân tộc. Ở đề tài thiêng liêng này, nhiều nghệ sĩ đã “nhặt những chữ của đời mà góp nên trang” từ chính mảnh đất được bồi đắp, nuôi dưỡng bởi biết bao thế hệ anh dũng hi sinh, cống hiến để bảo vệ và dựng xây non sông. Sự tận tụy trong hành trình sáng tác ấy của mỗi nhà văn, nhà thơ không phải là sự gượng ép để chạy theo nhịp điệu thời đại, mà xuất phát từ tình yêu chân thành, từ nỗi niềm tha thiết dành cho quê hương, để từ đó dáng hình đất nước được hiện lên một cách tự nhiên và sống động nhất. Trong mạch nguồn tình cảm ấy, bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi đã trở thành những tiếng thơ đặc biệt, khắc họa đậm nét cảm hứng về Tổ quốc.

Nhắc đến nhà thơ Tố Hữu, người ta nhớ ngay đến một tiếng thơ mang chất trữ tình chính trị sâu sắc với ngòi bút hướng đến những vấn đề của đất nước và lịch sử dân tộc. Trong đó, bài thơ “Việt Bắc” đã thể hiện trọn vẹn phong cách sáng tác của Tố Hữu và màu sắc dân tộc đậm đà thường thấy trong thơ ông. Được viết vào tháng 10 năm 1954 - thời điểm Trung ương Đảng quyết định rời chiến khu Việt Bắc và về lại Thủ đô, bài thơ từ đó được viết bằng nỗi nhớ nhung da diết của con người đã từng chiến đấu, gắn bó máu thịt nơi mảnh đất nghĩa tình. Còn với nhà thơ Nguyễn Đình Thi, bài thơ “Đất nước” chính là minh chứng rõ nét cho hồn thơ đầy phóng khoáng với những suy tư, chiêm nghiệm đặc biệt dành cho đất nước và con người Việt Nam. Đây là tác phẩm được viết trong suốt quãng thời gian kháng chiến chống Pháp (1948 - 1955) đầy gian khổ mà quật cường của nhân dân ta. Chính sự chắp nối ấy đã giúp Nguyễn Đình Thi mang đến chiều sâu đặc biệt cho hình ảnh đất nước khi được viết bằng niềm tự hào dành cho dân tộc, nhân dân.

Đề tài về đất nước trở thành dòng chảy cảm hứng mạnh mẽ để Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu đặt bút mà viết nên thơ. Cả hai bài thơ đều có sự gặp gỡ trong cảm hứng sử thi. Ở đó, đất nước được khắc họa với quá trình chiến đấu trong lịch sử dân tộc, trở nên vững vàng bởi có sức mạnh đoàn kết toàn dân. Đất nước dù có chìm trong khói lửa bom đạn vẫn ngời sáng hình ảnh nhân dân chiến đấu không ngừng nghỉ để giành lại độc lập. Nơi chiến khu kháng chiến, nhà thơ Tố Hữu đã nhìn thấy được khí thế anh dũng của đội quân đang tiến tới chiến trường:

“Những đường Việt Bắc của ta

Đêm đêm rầm rập như là đất rung”

hay

“Dân quân đỏ đuốc từng đoàn

Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay”

Trong màn đêm mịt mù khói sương, người ta vẫn có thể nhìn thấy bóng dáng hào hùng của những người chiến sĩ ra trận, tiếng “rầm rập” đầy mạnh mẽ của đoàn quân đang tiến về phía trước. Hòa chung với không khí ấy, những nam nữ dân công cũng bước vào trận chiến với quyết tâm bảo đảm vũ khí, thuốc men, lương thực,… cho tiền tuyến. Cuộc chiến đấu của ta là cuộc chiến đấu phát huy trọn vẹn sức mạnh của toàn dân bởi ở đó, từng “bước chân” cũng mang âm hưởng quật cường, mỗi con đường tiến bước đều được soi rạng bởi ngọn lửa của lí tưởng bừng sáng nơi trái tim nhân dân. Còn với Nguyễn Đình Thi, bom đạn có hề gì với sức mạnh của nhân dân:

“Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà!”

hay

“Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng.”

Sự tàn bạo, áp bức của kẻ thù có lớn đến đâu, vẫn phải khuất phục trước sức mạnh vô hình của “Lòng yêu nước thương nhà”, của tinh thần đoàn kết nơi nhân dân. Khi ấy, mỗi người dân - dẫu chỉ là những con người “áo vải” bình thường nhưng khi hòa vào không khí chung của dân tộc, đều là “những anh hùng” xông pha trên mọi trận địa. Tầm vóc của đất nước trở nên to lớn bởi được đi cùng với tầm vóc của con người - với tình yêu nước của nhân dân trở thành sức mạnh vô song chiến đấu với những vũ khí tối tân nhất; với ý chí quật cường để sẵn sàng “ôm”, gắn bó máu thịt với đất nước. Nguyễn Đình Thi, đứng giữa mùa thu độc lập nhưng tâm tưởng về những năm tháng quá khứ vẫn luôn âm vang mạnh mẽ:

“Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về!”

Tiếng nói của lịch sử, của những chiến công hiển hách mà cha ông ta đã tạo nên vẫn chưa từng bị lãng quên. “Rì rầm trong tiếng đất”, vang vọng nơi mỗi tấc đất của dân tộc vẫn luôn là sự hi sinh, là máu xương của thế hệ đi trước đã hóa thành núi sông để nhắc nhở thế hệ sau về quá khứ đầy tự hào của dân tộc.

Bên cạnh đó, đất nước trong “Việt Bắc” và “Đất Nước” đều chứa chan cảm hứng lãng mạn khi cho thấy vẻ đẹp của lí tưởng cách mạng, niềm tin vào tương lai tươi sáng. Những năm tháng chiến đấu dẫu nhiều khó khăn nhưng không hề u sầu, con người dẫu bị bủa vây bởi muôn trùng gian khổ cũng không quên gửi niềm tin về một ngày đất nước giành lại hòa bình. Trong bài thơ “Việt Bắc”, dẫu đất nước phải đi qua biết bao nhiêu “đêm thăm thẳm sương dày” thì từng chuyến xe cứ băng băng tiến về phía trước, những người chiến sĩ luôn tràn đầy tinh thần lạc quan bởi:

“Đèn pha bật sáng như ngày mai lên”

hay

“Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan”

Dẫn đường cho con người, cho đất nước lúc bấy giờ chính là ánh sáng, “ánh sao” của lí tưởng cao đẹp, của niềm tin vào tương lai tươi sáng, về “ngày mai” độc lập tự do của dân tộc. Còn trong “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, ta bắt gặp khí thế sục sôi ngay trong tâm tưởng của những con người yêu nước khi dân tộc chìm vào khói lửa chiến tranh:

“Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.”

hay

“Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.”

Con người trong những đêm ngày chiến đấu gian khổ chưa từng nghĩ đến sự bỏ cuộc, ở họ vẫn luôn là tâm thế “nghĩ tới trời đất mới”, với tâm hồn sục sôi khát vọng chiến đấu mà hướng tới “bát ngát ánh bình minh”. Câu thơ như vẽ nên trước mắt người đọc hình ảnh đất nước luôn kiên cường trong khói lửa bom đạn mà ở đó, nhân dân luôn phấp phới một hi vọng về ngày đất nước “rũ bùn” vươn lên độc lập, tự do.

Thế nhưng, ta vẫn hiểu rằng “Nghệ thuật là lĩnh vực của sự độc đáo” mà nhà thơ Nguyễn Đình Thi và nhà thơ Tố Hữu đều mang đến những nét vẽ rất riêng cho bức tranh về đất nước. Trong sáng tác của mình, Tố Hữu miêu tả đất nước trong không gian cụ thể, giàu tính địa phương của mảnh đất Việt Bắc - nơi nhà thơ đã gắn bó máu thịt trong những năm tháng chiến đấu. Khung cảnh thiên nhiên vì thế hiện lên trong cái nhìn đầy tỉ mỉ mà ở đó, mọi cảnh vật đều xuất hiện một cách độc đáo, riêng biệt dưới đôi mắt quan sát tỉ mỉ của Tố Hữu. Đó là sự luân chuyển của bốn mùa Đông - Xuân - Hạ - Thu: “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”, “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”, “Ve kêu rừng phách đổ vàng”, “Rừng thu trăng rọi hòa bình”. Không để sự lạnh lẽo, cô liêu, đầy khắc nghiệt vốn có len lỏi vào trong trang thơ của mình, mùa đông trên mảnh đất Việt Bắc hiện lên với mọi đường nét, sắc màu tươi tắn, rực rỡ nhất. Sắc xanh của của những cánh rừng, màu đỏ tươi của hoa chuối đã phủ lên không gian một sức sống đặc biệt. Đó còn là mùa xuân với sắc trắng của hoa mơ - loài hoa đặc trưng nơi thiên nhiên vùng cao khiến cả khu rừng được khoác một lớp áo mới đầy nhựa sống mà nhẹ nhàng, nên thơ. Khác với khung cảnh mơ màng ấy, mùa hè chào đón Việt Bắc với tiếng ve âm vang và màu vàng của rừng phách. Bức tranh mùa hạ không phải một không gian tĩnh tại mà sống động, tươi vui hơn bao giờ hết bởi sự đánh thức của tiếng ve: tiếng ve vang lên tới đâu, thiên nhiên chuyển mình đến ấy - rừng phách những ngày cuối xuân mới đồng loạt trổ vàng rực rỡ. Đến mùa thu, ánh trăng tỏa rạng mang đến vẻ đẹp bình yên, thơ mộng; tưới mát cho tâm hồn con người những xúc cảm dịu nhẹ, mát lành để vững vàng hơn trước mưa bom lửa đạn. Nhà thơ cũng mang một nỗi nhớ dành cho những địa danh lịch sử như Tân Trào, Hồng Thái; cho vẻ đẹp dung dị của mảnh đất Tây Bắc với mái đình, cây đa.

Khác với Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi không miêu tả những hình ảnh thiên nhiên và con người quen thuộc nơi một vùng đất cụ thể, mà quan sát đất nước với cái nhìn đi vào chiều rộng không gian: từ vẻ đẹp của thiên nhiên đến hình ảnh những năm tháng chiến tranh và vẻ đẹp của dân tộc. Đó là một mùa thu Hà Nội đầy thi vị, trong sáng nhưng cũng thoáng mang nét trầm tư trong nỗi hoài niệm của thi sĩ. Bức tranh mùa thu đánh thức mọi giác quan, cảm xúc của con người với hương cốm mới, cái chớm lạnh của buổi sáng đầu mùa hay hơi may xao xác những con phố. Không gian nghệ thuật ấy được nhà thơ chuyển dịch sang một không gian toàn cảnh: quang cảnh đất nước của mùa thu độc lập. Ở đó, không còn khói lửa bom đạn, chỉ thấy dáng hình thiên nhiên tươi sáng, đầy sức sống được miêu tả trong chiều kích rộng lớn:

“Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha!

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Nguyễn Đình Thi mang đến một loạt hình ảnh để khắc họa bức tranh thiên nhiên toàn cảnh với núi đồi, trời thu, cánh đồng, những ngả đường, những dòng sông. Tất cả đều gợi lên diện mạo mới tươi sáng, tràn đầy sức sống của đất nước ngày độc lập, thoát ra khỏi những tháng ngày đen tối của ách nô lệ. Dưới ngòi bút của nhà thơ, vạn vật đều in dấu niềm hi vọng mãnh liệt về một thời kì mới của dân tộc: nơi cái “thơm mát” của cánh đồng báo hiệu sự trù phú, yên bình; cái “bát ngát” của những ngả đường mở ra một tương lai tươi sáng; “phù sa” màu mỡ - nơi những dòng sông cũng hứa hẹn sức sống mới. Nhà thơ cũng hướng cái nhìn tới năm tháng đầy gian lao của đất nước với những đêm “rì rầm trong tiếng đất”, những ngày “nắng đốt theo đêm mưa dội”, hiểu được rằng “mỗi bước đường mỗi bước hi sinh”.

Một trong những dấu ấn riêng biệt của cả hai bài thơ còn là sự khác biệt trong thời gian nghệ thuật được miêu tả. Trong bài thơ “Việt Bắc”, thời gian cứ thế trở về với những hoài niệm quá khứ, những năm tháng chiến đấu gian khổ mà hào hùng. Trong tâm trạng lưu luyến, bâng khuâng của người đi - kẻ ở, nỗi nhớ về con người, về không gian, về những ân nghĩa nơi Việt Bắc cứ thế trở thành một dòng chảy cảm xúc tuôn trào. Nhà thơ nhớ về bản làng, về ngày tháng “mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù”. Đặc biệt, người về xuôi làm sao có thể quên được những năm tháng chiến đấu gian khổ mà ấm áp với “miếng cơm chấm muối”, “trám bùi để rụng”? Tố Hữu đã sử dụng vô cùng khéo léo cụm từ “mình đi” - “mình về”:

“Mình đi, có nhớ những ngày

Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù

Mình về, có nhớ chiến khu

Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai”

Để từ đây, mỗi hình ảnh về Việt Bắc hiện lên đều dẫn ta vào thế giới của hoài niệm, của kí ức tràn ngập nghĩa tình Cách mạng. Ngược lại, “Đất nước” lại tập trung khái quát toàn bộ sự vận động của đất nước trong quá trình lịch sử từ hiện tại, quá khứ và hướng tới tương lai. Nguyễn Đình Thi đã miêu tả khung cảnh mùa thu đất nước trong hoài niệm và mùa thu của độc lập, hòa bình với tâm thế hào hứng, vui tươi:

“Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”

Đặc biệt, từ điểm nhìn của hiện tại, nhà thơ đã lắng nghe, cảm nhận tiếng vọng của quá khứ, của thế hệ cha ông:

“Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về!”

“Tiếng đất” ở đây không chỉ là âm thanh của núi rừng mà con là tiếng nói của truyền thống dựng nước và giữ nước suốt hàng nghìn năm lịch sử, của cội nguồn văn hóa được vun đắp qua bao năm tháng. Đất nước với lịch sự hào hùng chưa bao giờ bị phai mờ mà luôn có tiếng âm vang của quá khứ - “vọng nói về” để tiếp sức mạnh mẽ cho thế hệ hiện tại và tương lai.

Đặc biệt, đến với “Đất Nước” và “Việt Bắc”, người đọc lại được hòa mình vào khúc ca của cảm xúc, tâm tư với giọng điệu riêng biệt. Với Tố Hữu, mảnh đất đầy ân tình trong những năm tháng chiến đấu khiến nhà thơ luôn dành niềm nhung nhớ, lưu luyến cho con người, cảnh vật nơi đây. Bằng lối xưng hô “mình” - “ta” mang tính chất đối đáp đầy tình tứ; đại từ phiếm chỉ “ai” đầy e ấp đã khiến giọng điệu của bài thơ trở nên thiết tha, sâu lắng mà da diết. Đó là khúc ca của niềm thương, nỗi nhớ tràn ngập trong cả bài thơ:

“Ta về, ta nhớ những hoa cùng người.”

“Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang.”

“Nhớ cô em gái hái măng một mình”

“Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.”

Thể thơ lục bát tạo nên một khúc ca nhịp nhàng của tâm tư, điệp từ “nhớ” được lặp lại nhiều lần thực sự đã khiến bài thơ trở thành một điệp khúc vang vọng lâu bền trong tâm khảm người đọc. Đó là nỗi nhớ của người đi dành cho kẻ ở, cho đồng bào Việt Bắc và cho vùng đất đã trở thành một phần máu thịt nơi tâm hồn. Ẩn sau từng nhịp thơ, đó còn là khúc ca của sự ân tình thủy chung, hòa chung vào mạch nguồn bất tận của dân tộc về đạo lí “Uống nước nhớ nguồn”.

Đến với “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, ta cũng thấy thơ thật sự là “âm nhạc của tâm hồn” (Voltaire) khi trải dọc cả bài thơ là khúc giao hưởng trầm lặng của nỗi đau, sự căm thù đến âm hưởng vui tươi của niềm tự hào. Với cảm xúc chủ đạo như vậy, thể thơ tự do đã tạo nên dòng chảy linh hoạt của cảm xúc. Giọng thơ khi thì trầm lắng, suy tư, lúc thì dõng dạc, đầy mạnh mẽ. Nói về những đớn đau mà nhân dân ta phải đối diện, nhà thơ không ngần ngại dùng những động từ mạnh, giàu sức gợi hình hay biện pháp ẩn dụ để khắc hóa chân thực sự tàn ác của quân xâm lược:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều”

hay

“Thằng giặc Tây, thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da…”

Từ những hình ảnh ẩn dụ như “đè cổ”, “lột da”, “chảy máu” đến động từ mạnh như “đâm nát” đều diễn tả đất nước những năm tháng chiến tranh đầy đau thương mà ở đó, nỗi đau không chỉ là của con người mà còn là nỗi đau của thiên nhiên vạn vật. Đan xen với tiếng thơ đầy căm hờn và giận dữ trước tội ác của quân thù, Nguyễn Đình Thi cũng không ngần ngại cất lên tiếng thơ đầy dõng dạc, hào hùng:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta”

Câu thơ vang lên như một lời khẳng định đầy dứt khoát về chủ quyền, sự độc lập của dân tộc từ vùng trời cho tới mọi tấc đất của non sông. Điệp ngữ “chúng ta” được lặp lại khiến nhịp thơ trở nên dồn dập và sẽ là gì nếu không phải là tiếng ca của sự niềm tự hào khi cảnh sắc đất nước được hồi sinh? Hàng loạt các từ ngữ bày tỏ trạng thái, cảm xúc như “đứng vui”, “nói cười”, “thiết tha” không chỉ thổi sự tươi mới vào thiên nhiên mà còn nói thay cho sự phấn khởi của lòng người.

Có thể thấy, điểm tương đồng giữa hai bài thơ được tạo nên là bởi cả Tố Hữu và Nguyễn Đình Thi đều có một tình yêu đất nước to lớn, một tấm lòng luôn muốn hòa mình vào dòng chảy lịch sử của đất nước. Họ gặp nhau nơi giao điểm của những nhà thơ không để mình đứng ngoài thời cuộc, của những ngòi bút hiểu rằng “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép” (Chế Lan Viên). Có lẽ vì thế mà cảm hứng về đất nước được khắc họa trọn vẹn trong cuộc sống chiến đấu, những khoảnh khắc gần gũi, yên bình hay vẻ đẹp của con người, thiên nhiên.

Thế nhưng, điều làm nên dấu ấn của cả Nguyễn Đình Thi và Tố Hữu trên thi đàn chính là nhờ phong cách sáng tác độc đáo của mỗi nhà thơ. Mỗi trang thơ của Tố Hữu thường mang âm hưởng của chất trữ tình chính trị sâu sắc, hướng đến những sự kiện lịch sử của dân tộc mang tính dân tộc đậm đà. Trong khi đó, thơ của Nguyễn Đình Thi giàu tính chiêm nghiệm về sự kì diệu của sự sống, của sức mạnh tiềm ẩn trong con người Việt Nam. Với nỗ lực mang đến diện mạo hiện đại cho thơ ca, trang thơ của ông phóng khoáng nhưng vẫn giàu nhạc điệu và “Đất nước” là một trong những bài thơ như thế. Đặc biệt, sự khác biệt về hoàn cảnh sáng tác cũng là điều khiến mỗi tác phẩm mang một âm hưởng riêng. Nếu “Việt Bắc” được sáng tác vào tháng 10 năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống Pháp kết thúc thì “Đất nước” được Nguyễn Đình Thi viết trong khoảng thời gian từ 1948 đến 1955 - thời kì kháng chiến chống Pháp diễn ra ác liệt. Vì thế, không khó để thấy được “Việt Bắc” chính là sự tổng kết lại một chặng đường chiến đấu, là kết tinh cho nỗi nhớ, tình cảm sâu đậm của người chiến sĩ khi rời xa mảnh đất đầy ân tình mình gắn bó. Trong khi đó, “Đất nước” lại chính là sự tổng hòa của những cảm xúc tự hào, xao xuyến, sự hồi tưởng những kí ức trưởng thành nơi chiến trường của Nguyễn Đình Thi.

Có thể khẳng định, chính nhờ sự khám phá và cách khắc họa riêng của mỗi nhà thơ mà hình ảnh đất nước được hiện lên với những vẻ đẹp phong phú, được nhìn nhận trong những chiều kích đa dạng của không gian, lịch sử, văn hóa,…. “Việt Bắc” chính là sự lắng kết của hồn thơ Tố Hữu đầy tài hoa mà ở đó, đất nước hiện lên vô cùng gần gũi trong hoài niệm tha thiết về một thời cách mạng nơi mảnh đất ân tình. Những lời thơ của “Đất nước” lại mang đến những chiêm nghiệm về một đất nước trường tồn mạnh mẽ, bất diệt trong dòng chảy của lịch sử, thời đại. Thật không sai khi Xuân Diệu khẳng định “Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên.” và Nguyễn Đình Thi được coi là “cây đại thụ” của nền văn nghệ Cách mạng Việt Nam. Cả hai nhà thơ đã tạo nên những dấu ấn đặc biệt cho thơ ca Cách mạng bấy giờ và gieo vào lòng người đọc những hình dung thật đẹp về đất nước.

Nhà thơ Huy Cận cho rằng mỗi nhà thơ cần:

“Gieo vần như thể tay gieo hạt

Nhịp sống làm nên những nhịp thơ”

Những “hạt” giống từ cuộc đời, từ âm hưởng của thời đại khi được gieo xuống mảnh đất của văn chương sẽ nảy nở thành những vần thơ có sức sống lâu bền. Nhà thơ Tố Hữu qua bài thơ “Việt Bắc” và nhà thơ Nguyễn Đình Thi qua bài thơ “Đất nước” đã viết nên những trang thơ là “nhịp sống” của đất nước, dân tộc bằng ngòi bút đầy tài hoa và độc đáo. Dáng hình của đất nước hiện lên dẫu có những điểm khác biệt nhưng cả “Việt Bắc” và “Đất nước” có lẽ không chỉ còn là tiếng nói, tâm tư cá nhân mà đã hòa vào mạch nguồn rộng lớn của thời đại. Để từ đó, người đọc từ mọi thế hệ vẫn luôn tự hào về Việt Nam thân yêu, luôn khắc sâu hình ảnh một đất nước vượt qua nghìn trùng gian khổ để tỏa sáng trong dòng chảy thời gian…

Tham khảo bài viết khác tại đây:

Phân tích đoạn trích trọng tâm trong “Số đỏ” - Vũ Trọng Phụng

Xem thêm:

Link nội dung: https://melodious.edu.vn/bai-tho-dat-nuoc-cua-to-huu-a86676.html