Trần Đình Sử
Kỉ niệm 30 năm ngày mất của nhà văn Nguyễn Minh Châu (1930 - 1989), chúng ta nhớ đến ông như một nhà văn tiêu biểu cho tinh thần đổi mới triệt để văn học những năm 80 của thế kỉ XX.
Sau năm 1975 văn học Việt Nam trải qua một cuộc chuyển mình dữ dội, không chỉ từ văn học thời chiến sang thời bình, từ văn học sử thi sang văn học thế sự và đời tư, mà trong chiều sâu của nó có sự chuyển động từ văn học tuyên truyền chính trị, phản ánh hiện thực theo phương pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa sang một nền văn học hậu văn học cách mạng, hậu hiện thực xã hội chủ nghĩa. Bởi từ trong đáy sâu của ý thức nhiều nhà văn đã nhận ra văn học chính trị và chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa đã trói buộc sáng tác quá nhiều và khao khát giải thoát khỏi các trói buộc ấy.
Thuật ngữ văn học hậu văn học cách mạng hay văn hoc hậu hiện thực xã hội chủ nghĩa có thể sẽ gây tranh cãi, song rõ ràng không thể coi văn học đổi mới là văn học cách mạng như cũ, cũng không thể cứ gọi mãi nó là văn học đổi mới. Bởi sau khi đổi mới văn học sẽ có một tính chất mới,khác trước, mà không thể gọi chung chung là “đổi mới” được. Dù sao ta không thể loại bỏ sáng tác thời kì này của các nhà văn như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Lê Lưu, Nguyễn Minh Châu, Tô Hoài, và của nhiều nhà văn nữa là văn học cách mạng khi nó không phục vụ chính trị và không theo phương pháp sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa. Hàm nghĩa của Đổi mới đã biến đổi trong tiến trình văn học. Lúc đầu người ta nghĩ rằng, lí thuyết Mác - Lê vốn là khoa học, đã bị hiểu sai, dung tục hoá, đổi mới là tìm lại cách hiểu đúng cho nó. Nhưng tiếp theo Liên Xô và cả đông Âu sụp đổ, chiến tranh lạnh kết thúc, người ta nhận thấy quả là vấn đề quá lớn, mà các nguyên lí từ phản ánh, tính đảng cho đến lí thuyết đấu tranh giai cấp, chủ nghĩa xã hôị đều là các lí thuyết không thể một thời gian ngắn có thể giải thích rõ ràng, các nhà văn còn phải suy nghĩ xa hơn nữa, tạo nên một bước ngoạt thật sự trên con đường giải phóng nghệ thuật. Vừa đến nhứng năm 90 cuộc hội nhập quốc tê về văn hoá văn nghệ đã tiếp sức cho những tìm tòi mới. tiếp cận chủ nghĩa hiện đại, hậu hiện đại. Xét về mặt này văn học Việt Nam sau 1986, dần dần, một bộ phận lớn, quan trọng, tiêu biểu cho tinh hoa đã chuyển sang giại đoạn văn học hậu văn học cách mạng và hậu hiện thực xã hội chủ nghĩa, mà nhiều nhà văn đã thể hiện.
Về mặt chính trị Đổi mới là đường lối thay đổi các chính sách kinh tế, chính trị nhằm cứu vãn tình trạng khủng hoảng trầm trọng do nhiều sai lầm tích tụ lâu ngày cả về lí thuyết và thực tiễn, quan trọng nhất là đổi thay tư duy về xã hội và kinh tế, hướng tới giải phóng mọi tiềm lực xã hội để phát triển sản xuất theo hướng kinh tế thị trường, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế. Bản thân chính sách Đổi mới đó là một cuộc thay đổi về đường lối của đảng cầm quyền làm cho nó thích nghi thời cuộc, đồng thời làm thay đổi toàn bộ xã hội, có thể diễn biến theo xu hướng xấu hơn, như ta đã thấy về văn hoá, đạo đức xuống cấp, mà đương thời không ai có thể dự đoán hết được. Về văn nghệ cũng thế, trước hết “Đổi mới” lúc đầu chỉ nhằm nhằm cởi trói, tháo gỡ các nút thắt trói buộc văn nghệ do hiểu và vận dụng lí luận Mác Lê. Nhưng càng về sau càng hiểu rõ bản thân lí thuyết Mác Lê về văn nghệ có nhiều bất cập, và nhiều nhà văn đã tự giải thoát, tìm tòi lí luận thích hợp cho mình.Chính sách văn nghệ của Đảng, tuy vẫn cứng rắn, song cũng tạo nhiều khoảng trống tự do về phong cách và phương pháp sáng tác, không nhắc tới chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa và tính đảng, tính nhân dân nữa.và khuynh hướng tự do hoá trong văn nghệ trở thành xu thế không thể đảo ngược. Công cuộc đổi mới văn nghệ của ta bắt đầu tự sự nêu lên những sai lầm về quan niệm văn nghệ, những lí thuyết trói buộc văn nghệ cần được tháo gỡ, nhưng văn nghệ sẽ như thế nào hầu như chúng ta chỉ có một lí tưởng nhân văn và các khuynh hướng của văn nghệ thế giới đang mời gọi. Trong bối cảnh đó, vai trò sáng tạo chủ động, tự quyết bung ra của các cây bút tài năng có vai trò cực kì quan trọng. Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Tô Hoài, Nguyễn Bình Phương và một số cây bút khác đã mở ra các hướng mới. Mỗi người có một cách đi. Một phương hướng và văn nghệ đổi mới là một hợp lực của những tìm tòi sáng tạo có tính cá nhân ấy. Bức tranh văn học Việt Nam hơn 40 năm qua đã hết sức đa dạng mà cho đến nay vẫn chưa thấy có công trình nào tổng kết toàn diện về các khuynh hương nghệ thuật. Trong bối cảnh đó Nguyễn Minh Châu là một nhà nghệ sĩ tiên phong rất đáng được nghiên cứu.
Vai trò tiên phong của Nguyễn Minh Châu thể hiện ở trên ba phương diện. Phát hiện vấn đề, đổi thay lí thuyết và thực tiễn sáng tác.
1.Người nhận thức thấu triệt những phẩm chất và chế làm ra văn học cách mạng. Nguyễn Minh Châu là một nhà văn tiêu biểu của văn học cách mạng và đã ssng tác những tác phẩm tiêu biểu cho văn học này, như Dấu chân người lính. Nhờ thế ông hiểu hơn ai hết về tinhc chân thực của văn học này. Đọc Trang giấy trước đèn, phê bình và tiểu luận của nhà văn ta thấy ít nhất, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã chỉ ra ba vấn đề chính xác và quan trọng. Một là hoài nghi về tính chân thực của văn học ta, do nhu cầu tuyên truyền mà tự tô hồng, che giấu bớt sự thật mất mát, đau đớn (1978). Hai là ông phát hiện ra sai lầm trong phương pháp sáng tác, đó là coi trong cái thực tại cần phải có hơn cái thực tại vốn có. Đây là nhận xét mà sau đó nhà phê bình văn học Hoàng Ngọc Hiến đã khái quát lên thành chủ nghĩa hiện thực phải đạo gây tranh luận một thời. Và ba là ông là người đầu tiên và duy nhất đề xuất Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ (Báo Văn nghệ, số 49/50 ngày 5/12/1987), trong đó mô tả toàn bộ cái không gian chật chội, trói buộc, gieo rắc sự sợ hãi, chán nản, nếu nhà văn có ý tưởng , phát hiện mới mẻ của riêng mình thì buộc phải nguỵ trang, che chắn một cách thảm hại nếu muốn viết. Người nghệ sĩ muốn trở thành nghệ sĩ lại phải giết dần cái phần nghệ sĩ trong bản thân mình.. Ông đã lên án sâu sắc, triệt để chủ nghĩa giáo điều trong văn nghệ. Cho đến lúc đó chưa có ai lên tiếng phê phán lí thuyết giáo điều và sự trói buộc sâu sắc hơn, toàn diện và mạnh mẽ hơn. Nhiều nghệ sĩ lớn cũng cảm thấy, nhưng không ai nói. Điều này cho thấy Nguyễn Minh Châu rất dũng cảm.
Qua các sáng tác cuối đời, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã thể hiện những chủ đề mới của văn học, cho ta nhìn thấy những khía cạnh phong phú, phức tạp mà văn học trước đó chưa hề đề cập.
Về nghệ thuật ông đã chuyển sang độc thoại nội tâm của nhưng người kể chuyện xưng tôi hoặc người kể mang điểm nhìn bên trong của nhân vật. Ông bắt đầu trở về với ngôn ngữ biểu tượng. Bức tranh, Chiêc thuyền ngoài xa, Cỏ lau, Phiên chợ Giát, Khách ở quê ra…đều là các biểu tượng mới của văn học.
Nguyễn Minh Châu đã qua đời quá sơm khi tài năng đang độ chin và cuộc đổi mới văn học của đất nước vừa mới bắt đầu. Nhưng các suy nghĩ sâu sắc của ông về thực trạng văn học, các sáng tác mở đầu của ông đầy dứt khoát kiên nghị, hoàn toàn đủ để ta nhìn thấy ở ông một nhà văn tiên phong của văn học đổi mới.
Link nội dung: https://melodious.edu.vn/phong-cach-cua-nguyen-minh-chau-a86337.html