Là một trong những ngành học hot nhất ở nước Mỹ, ngành tâm lý học giúp học sinh có hành trang vững vàng đối với nhiều ngành nghề công việc khác nhau. Hàng năm, các học sinh sẽ dành nhiều sự quan tâm trong việc theo đuổi các khóa học nâng cao trong đó có lĩnh vực nghiên cứu về tâm lý học. Các chuyên viên và chuyên gia cũng thường nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học sinh chuẩn bị sớm cho quá trình ứng tuyển công việc và nghiên cứu các lựa chọn mà họ có để trở nên chủ động hơn trong ngành.
Tâm lý học là ngành khoa học có liên quan đến hành vi và tâm trí. Từ việc phân tích chức năng não bộ căn bản đến việc nghiên cứu những mối quan hệ xã hội phức tạp, nghiên cứu tâm lý học thường bao gồm nhiều lĩnh vực nghiên cứu bao gồm đối tượng con người và/hoặc kể cả động vật. Việc hiểu quá trình nghiên cứu của một nhà tâm lý học bao gồm việc hiểu tầm quan trọng của phương pháp khoa học, một phương pháp mà các nhà khoa học và các nhà nghiên cứu đưa ra các kết luận về hành vi con người.
Phương pháp khoa học là một tập hợp các nguyên tắc và phương thức mà các nhà nghiên cứu dùng để đưa ra các câu hỏi, thu thập dữ liệu, và đưa ra kết luận. Các tiếp cận này cho phép các nhà nghiên cứu hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu của họ. Chúng là “miêu tả, giải thích, dự đoán, và trong vài trường hợp, ảnh hưởng đến quá trình và hành vi của não bộ.” Mục tiêu cuối cùng của việc nghiên cứu khoa học trong tâm lý học là để minh họa các hành vi và đưa ra lý do mà chúng xảy ra. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu cũng cố gắng để có thể dự đoán (và đôi khi thay đổi) hành vi con người.
Trước khi bắt đầu quá trình nghiên cứu thì nhà nghiên cứu sẽ phải chọn một chủ đề nghiên cứu. Sau đó, họ sẽ phải phân tích những nghiên cứu và thông tin cũ mà liên quan đến chủ đề một cách kĩ lưỡng. Đến cuối thì sẽ rõ hơn về những câu hỏi nào trong chủ đề vẫn chưa được giải đáp. Họ có thể sẽ phải tham khảo những cuốn sách và nhật ký hàn lâm từ hàng chục năm trước để đánh giá những đề tài nghiên cứu có liên quan nhất. Những tài liệu nền này sẽ giúp nhà nghiên cứu hình thành được bước đầu tiên trong quá trình nghiên cứu tâm lý - giả thuyết.
Bốn bước của quá trình nghiên cứu là:
Bước 1 - Hình Thành Một Giả Thuyết Có Thể Kiểm Chứng Được: Một giả thuyết là một suy đoán có căn cứ về mối quan hệ giữa hai biến số trở lên, hoặc một sự kiện hay xu hướng. Sau đó các nhà nghiên cứu sẽ đưa ra một giải thích cho nghiên cứu của họ, mà có thể sẽ chửng minh hoặc phản biện lý thuyết.
Bước 2 - Hình Thành Nghiên Cứu Và Thu Thập Dữ Liệu: Có loại phương thức nghiên cứu nhằm thu thập thông tin - nghiên cứu miêu tả và nghiên cứu thực nghiệm.
Bước 3 - Phân Tích Dữ Liệu Và Đưa Ra Kết Luận: Nhà nghiên cứu sẽ nhìn qua những thông tin họ đã thu thập, và với sự trợ giúp của các thống kê, họ sẽ tóm tắt dữ liệu, phân tích kết quả và đưa ra những kết luận từ những khám phá của họ.
Bước 4 - Báo Cáo Những Khám Phá Từ Nghiên Cứu: Đến cuối thì các nhà nghiên cứu sẽ chia sẻ khám phá của họ bằng cách viết ra miêu tả nghiên cứu và xuất bản bài viết của họ trong một nhật ký hàn lâm hay chuyên nghiệp.
Nghiên cứu tâm lý học thường diễn ra ở môi trường phòng thí nghiệm, và thường bao gồm việc thử nghiệm, kiểm tra, và phân tích dữ liệu thống kê. Các nhà nghiên cứu tâm lý cũng có thể sẽ hoạt động tại thực địa (thu thập dữ liệu ở bệnh viện, trường học, văn phòng, đường phố) với mục tiêu quan sát và phân tích các hành vi trong môi trường tự nhiên nhất có thể của chúng.
Không phải tất cả nhà nghiên cứu tâm lý đều sử dụng chung phương thức nghiên cứu, và chúng đều tùy thuộc vào nguồn thông tin, mẫu dữ liệu và phương thức thu thập thông tin của họ.
Một nhà nghiên cứu học có thể thu thập dữ liệu định lượng, định tính, hoặc là cả hai.
Dữ liệu định tính tâm lý học bao gồm những kết quả mà không bao gồm việc thống kê hay những cách thức tương tự, trong khi dữ liệu định lượng tâm lý học có bao gồm những kết quả có tổ hợp mô hình toán học hoặc là ước lượng thống kê.
Những cách tiếp cận và cách thu thập dữ liệu phổ thông cho nghiên cứu tâm lý bao gồm:
Case Study: Một nghiên cứu thấu đáo về một hoăc một vài đối tượng, hoặc một sự kiện, ví dụ như việc nghiên cứu một người có bệnh não nan y.
Phân Tích Nội Dung: Một nghiên cứu về một thứ ghi chép nội dung con người, như là sách, luật và mĩ thuật. Ví dụ như phân tích các bài nói tranh biện của tổng thống Kennedy và Nixon, hay nghiên cứu những ảnh graffiti nam và nữ trong nhà vệ sinh công cộng.
Nghiên cứu dữ liệu chéo: Các nhóm đối tượng của chung một tổng thể được so sánh để làm rõ thông tin về một số đo lường cụ thể. Lấy ví dụ là việc một nhà nghiên cứu phân tích xem liệu mức tiêu thụ đường có ảnh hưởng đến vấn đề sức khỏe A.
Thử Nghiệm Ở Hiện Trường: Việc đi đến các vùng có hệ thống săn bắt - hái lượm tại Nam Mỹ để kiểm chứng các hành vi quan hệ phổ thông là ví dụ cho việc nghiên cứu (các) đối tượng tại môi trường tự nhiên của họ.
Khảo Sát: Việc lấy mẫu bất kì trong tổng thể qua việc tra cứu để thu thập thông tin quan trọng. Các ví dụ bao gồm khảo sát sức khỏe công cộng, khảo sát của chính phủ, và nghiên cứu thị trường.
Theo như Cục Thống kê Lao động Hoa Kỳ, một nhà tâm lý học cần phải có một bằng thạc sĩ, hay tiến sĩ thuộc ngành tâm lý học. Những người có quan tâm đến việc nghiên cứu hoặc theo đổi sự nghiệp trong học viện cần phải có một bằng thạc sĩ hoặc là tiến sĩ.
Một tấm bằng cử nhân tâm lý học thì sẽ đủ để cho sinh viên làm trợ lý nghiên cứu hoặc là trợ lý hành chính cho một nhà tâm lý học. Một số những nghề có triển vọng khác bao gồm việc làm kỹ thuật viên trong một lĩnh vực liên quan (như là nghiên cứu thị trường) hoặc là làm nhà tâm lý học hỗ trợ tại các trung tâm sức khỏe tâm lý và các chương trình cải tạo. Sau vài năm kinh nghiệm dưới sự chỉ dẫn của một nhà tâm lý học chuyên nghiệp, nhiều người thường sẽ quyết định theo học trường sau đại học và học lên tiến sĩ.
Tuy việc có bằng tiến sĩ là tiêu chuẩn cho việc nghiên cứu và hành nghề tâm lý học độc lập, số lượng học sinh tâm lý học theo đuổi học vị tiến sĩ đã tăng lên gấp sáu lần kể từ 1960, với số lượng bằng thạc sĩ đạt đến ít nhất 21400 vào năm 2008. Những người có bằng thạc sĩ tâm lý học sẽ được phép làm trợ lý dưới sự giám sát của một nhà tâm lý học cấp tiến sĩ. Một số người mà có thêm vài năm kinh nghiệm trong ngành thường sẽ kiếm việc làm tham vấn viên hoặc phân tích thị trường, trong khi một số khác có thể sẽ chọn những công việc thuộc chính phủ, đại học, hoặc là thuộc những khu vực tư nhân như là làm nghiên cứu, thu thập thông tin, và phân tích số liệu.
Một tấm bằng tiến sĩ tâm lý học thường sẽ yêu cầu 5 đến 7 năm học sau đại học và kết thúc với một bài luận văn kèm với một bài nghiên cứu. Những người có tấm bằng này thường sẽ có thể kiếm việc liên quan đến nghiên cứu và dạy học tại các trường đại học, dịch vụ chăm sóc y tế, khu vực tư nhân, và chính phủ. Ngoài ra, những tiến sĩ tâm lý học thường cũng thực hiện nghiên cứu độc lập trong khi lựa chọn nghề.
Những cá nhân có học vi cao và có nhiều kinh nghiệm hơn thường nhận được nhiều đề nghị và cơ hội hơn so với những người không theo học nâng cao hay có nhiều năm kinh nghiệm.
Càng nhiều kinh nghiệm được tiếp thu thì càng có lợi đối với những học sinh quan tâm đến việc theo đuổi nghiên cứu của tâm lý học. Những người bắt đầu sớm sẽ có lợi thế hơn.
“Xu hướng rõ rệt nhất hiện giờ là về số lượng sinh viên tham gia nghiên cứu ngày càng nhiều,” lời trích từ tiến sĩ Gary W. Lewandowski Jr., trưởng khoa Bộ Tâm Lý Học tại trường Đại Học Monmouth.
Điều quan trọng nhất mà Michael Metzger nói với học sinh về việc nghiên cứu là hãy tham gia sớm. “Ngay từ năm 2, có nhiều học sinh tại đây đã bắt đầu tham gia hỗ trợ các dự án tại phòng thí nghiệm,” trích lời Metzger, một giáo sư dạy tâm lý học tại Trường đại học Ashland (Ohio) và là trưởng khoa từ 2007. “Khi sinh viên tham gia nghiên cứu sớm, họ có rất là nhiều cơ hội để xây dựng nhiều kinh nghiệm khác nhau cho đến lúc tốt nghiệp.”
Ông ta nói rằng tuy các sinh viên sẽ bắt đầu ở những vai trò “cấp thấp” như thu thập và ghi chép dữ liệu, những trải nghiệm đó sẽ giúp chuẩn bị họ cho những vai trò sâu hơn trong quá trình nghiên cứu.
Dưới đây là một số trong vô vàn các cơ hội để sinh viên có thêm kinh nghiệm và kiến thức nghiên cứu tâm lý là:
Giúp Đỡ Giáo Sư - Tiến sĩ Lewandowski đề xuất rằng sinh viên nên bắt đầu càng sớm trong sự nghiệp học hành thì càng tốt. “Kể cả nếu bạn chưa có lớp nghiên cứu nào cả, nếu có giáo sư sẵn sàng chấp nhận sự trợ giúp, bạn sẽ không chỉ được bắt đầu sớm, mà bạn sẽ học được nhiều thứ sẽ giúp việc học dễ hơn nhiều,” ông nói. “Kiếm càng nhiều kinh nghiệm thì càng lợi bấy nhiêu.”
Hãy Tìm Một Cố Vấn - Đây là một trong những cách tốt nhất là học hỏi một người trong ngành. “Số lượng công việc có thể khiến bạn bị choáng ngợp, nhưng như với mọi thứ khác, bạn sẽ thích nghi theo thời gian và tìm cách để xoay xở,” từ Kongit Farrell, một coach về mối quan hệ và cuộc sống có bằng thạc sĩ về tâm lý học lâm sàng tại trường Đại học Pepperdine. “Hãy cố gắng và cố tìm một người cố vấn để được giúp đỡ.”
Đến Dự Hoặc Trình Bày Ở Các Buổi Hội Thảo Tâm Lý Học - “Chúng tôi có nhiều sinh viên mà đã có rất nhiều kinh nghiệm thuyết trình trong các buổi hội thảo trong quá trình học Đại học, để họ có lợi thế cao hơn khi họ muốn nhập hồ sơ học trường sau đại học.” Metzger nói. “Có nhiều chương trình sau đại học mà thường cân nhắc về kinh nghiệm nghiên cứu hồi sinh viên như một yếu tố quan trọng, dù dó là lĩnh vực nghiên cứu nào đi chăng nữa.”
Viết Và Xuất Bản Các Bài Viết Và Luận - “Ngày nay, việc sinh viên làm đồng tác giả cho các bài viết đang càng ngày trở nên quan trọng hơn cho việc nộp hồ sơ vào các chương trình tiến sĩ sau đại học,” Tiến sĩ Lewandowski nói.
Làm Trợ Lý Nghiên Cứu - Vị trí trợ lý nghiên cứu là một “cơ hội vàng” để kiếm thêm kinh nghiệm và tạo dựng các kết nối cho tương lai. Các trường đại học, bệnh viện và tổ chức tư nhân thường thuê trợ lý cho việc nghiên cứu các dự án tâm lý. Việc có kinh nghiệm làm việc ở phòng thí nghiệm hay các dự án nghiên cứu sẽ giúp cải thiện khả năng được nhận vào các chương trình học nâng cao và các vị trí nghiên cứu sau khi tốt nghiệp.
Đọc Tạp Chí Và Các Bài Viết Của APA (American Psychological Association) (Hiệp hội Tâm lý học Mỹ): Việc đọc tạp chí và các bài viết của APA về các dụng cụ và thủ thuật nghiên cứu, cùng với tạp chí the Monitor on Psychology and gradPSYCH giúp học sinh duy trì sự cập nhật về các nghiên cứu tâm lý mới nhất.
Nghiên Cứu Độc Lập Cùng Với Cố Vấn Giảng Viên: Việc lợi dụng các dự án tìm hiểu và nghiên cứu độc lập cho phép các sinh viên được làm việc và nghe cố vấn từ các giảng viên. Học sinh và giảng viên thường sẽ có ít nhất một mối quan tâm chung. Những giảng viên này cũng có thể viết thư giới thiệu, nhằm chứng minh khả năng làm việc độc lập của sinh viên.
“Một xu hướng [trong lĩnh vực nghiên cứu tâm lý] là sự công nhận giá trị của các nghiên cứu của sinh viên, vì cách chúng giúp xây dựng khả năng tư duy phản biện, phân tích và giao tiếp của sinh viên,” Lewandowski nói.
Các khóa học của trường sau đại học nhằm tiếp tục phát triển những kĩ năng và tố chất quan trọng này của các đối tượng quan tâm đến một sự nghiệp trong việc nghiên cứu tâm lý. Những thứ này bao gồm:
Kĩ Năng Phân Tích giúp các sinh viên nghiên cứu tâm lý bằng cách rèn giũa khả năng phân tích thông tin và đưa ra các kết luận của họ.
Kĩ Năng Giao Tiếp cải thiện khả năng giao tiếp và lắng nghe đối tượng của một nhà tâm lý học.
Kĩ Năng Quan Sát giúp một nhà tâm lý học nghiên cứu thái độ và hành vi qua việc hoàn thiện khả năng phân tích biểu cảm, hành động, tương tác, và tư thế.
Tính Kiên Nhẫn giúp các nhà nghiên cứu có thể ứng phó với những đối tượng có rối loạn hành vi hay rối loạn tâm lý.
Kĩ Năng Con Người giúp các nhà nghiên cứu làm việc hiệu quả cùng với các đối tượng, người được phỏng vấn, và các chuyên gia y tế khác.
Kĩ Năng Giải Quyết Vấn Đề sẽ hỗ trợ các nhà nghiên cứu trong việc xác định các giải pháp và cách chữa trị các vấn đề liên quan đến tâm lý và hành vi.
>>> Tham Khảo: Trị Liệu Tâm Lý: Không Phải Ai Cũng Có Thể Hành Nghề
Sau khi tốt nghiệp, các nhà nghiên cứu tâm lsy thường sẽ tìm thấy các công việc và cho phép họ làm ngay tại hiện trường, trong một lớp học, hoặc là trong một phòng thí nghiệm. Phần lớn những nghiên cứu trong phòng thí nghiệm là tại các trường đại học, các tổ chức chính phủ (như là Viện Sức khỏe Quốc gia), và các tổ chức nghiên cứu tư nhân. Một số sinh viên tốt nghiệp có thể sẽ tìm thấy việc trong ngành quản lý hoặc là quản trị sau nhiều năm làm nghiên cứu.
Các nhà nghiên cứu tâm lý có thể làm độc lập, tham gia một nhóm, hoặc tham gia làm nghiên cứu tập thể tầm cỡ quốc gia hoặc là quốc tế. Trong năm 2010, các nhà tâm lý học nắm giữ khoảng 174000 công việc: làm tự do (khoảng 34%), trong các dịch vụ giáo dục (29%), và trong ngành y tế (20%). Một số các tổ chức tư nhân và nhiều các trường đại học thường sẽ thuê những người có bằng cử nhân để hỗ trợ nghiên cứu. Một vài các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp tư nhân cũng có thể làm điều tương tự.
Hiệp hội Tâm lý học Mỹ nói rằng các học sinh nên cố tích thụ nguồn lực và kinh nghiệm của họ trong quá trình tìm vị trí nghiên cứu tâm lý, bao gồm việc thực tập, tham gia các sự kiện học tập dịch vụ, và tự nguyện tại các trường học. Tiến sĩ Erci Landrum, tác giả của cuốn “Kiếm Việc Với Một Tấm Bằng Cử Nhân Tâm Lý Học,” nói rằng việc hình thành mạng lưới quan hệ là cực kì quan trọng. Việc giữ liên lạc với các giảng viên và cán bộ giảng dạy là một điều tất yếu vì các cựu học sinh vẫn sẽ cần những nguồn tham khảo và thư đề cử khi gửi hồ sơ kiếm việc.
Dù vậy, chính là những cựu học sinh mà có bằng nâng cao về tâm lý học và kinh nghiệm vững chắc thì mới đạt yêu cầu cho nhiều công việc hơn. Có nhiều vị trí công việc khác mà có thể bổ sung các mối quan tâm khác, như:
Nghiên Cứu Về Rượu Và Thuốc: Những chủ đề nghiên cứu có liên quan có bao gồm những ảnh hưởng từ việc lạm dụng thuốc và bia rượu, rối loạn phổ rượu ở thai nhi, hậu quả lâu dài của thuốc đối với hệ thần kinh trung ương, hoặc là hậu quả cua thuốc trong khi mang thai.
Nghiên Cứu Thí Nghiệm: Các nhà nghiên cứu mà thích việc thí nghiệm sẽ thường khám phá những quan hệ nhân quả của hành vi, sinh lý và tâm lý con người. Chúng thường dựa nhiều vào những kết quả thử nghiệm, những bài khảo sát và những quan sát.
Nghiên Cứu Trong Trường Y: Hợp nhất với các cựu học sinh mà quan tâm đến thuốc, hàn lâm, kiếm tài trợ/học bổng, và giảng dạy.
Nghiên Cứu Quân Sự: Các nhà nghiên cứu có thể nghiên cứu về rối loạn stress sau sang chấn, những hậu quả của chiến tranh trong khi nhập ngũ, trầm cảm và tính hung hẵn của các lực lượng có vũ trang, và việc dùng thuốc khi nghỉ hưu.
Nghiên Cứu Dinh Dưỡng: Các bài khảo sát và phỏng vấn giúp các nhà nghiên cứu học về các hành vi ăn uống của nam và nữ, và đôi lúc có các vấn đề, như là chứng cuồng ăn, chứng chán ăn, kiểm soát cân năng, và thiếu dinh dưỡng.
Nghiên Cứu Xã Hội: Các bài khảo sát, phỏng vấn, quan sát giúp việc nghiên cứu các tị nạn xã hội, như là hành động tội phạm, vấn đề vô gia cư, và nạn nghèo.
Kèm với sự phát triển của xã hội Mỹ là sự gia tăng về nhu cầu thêm các nhà tâm lý học lâm sàng và nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu tâm lý sẽ giúp xác định những dịch vụ và giải pháp mà sẽ có ích với nhóm dân số đang bị lão hóa, và đang phải gặp nhiều trở ngại hơn về mặt sinh lý và tâm lý.
Farrell nói rằng cô đang thấy một sự thay đổi trong ngành là thay vì phân chia thì các lĩnh vực trong ngành bắt đầu củng cố cho nhau “... tâm lý học không còn là về những khám phá cá nhân nữa,” cô nói. “mà là về tìm cách áp dụng những khám phá đó vào những lĩnh vực khác.”
Các nhà nghiên cứu tâm lý thường có các vai trò như là hỗ trợ trong việc phát triển các chương trình cho các nhóm đặc biệt, như là cựu binh bị chấn thương tâm lý, các đối tượng bị rối loạn phổ tự kỷ, những bệnh nhân có rối loạn tâm lý, và những người bị căng thẳng do công việc.
Số lượng cơ hội cho những người có bằng nâng cao trong ngành tâm lý học đang tăng lên, do nhu cầu phòng chống bệnh đang trở nên lớn hơn so với nhu cầu chấn đoán và chữa trị. Phần lớn những vấn đề trong xã hội hiện nay có bao gồm các vấn đề hành vi liên quan đến các bệnh hoặc vấn đề sức khỏe mãn tính, nghiện thuốc, quan hệ cá nhân xấu, sự vô can đối với môi trường, và bạo lực. Các nhà nghiên cứu tâm lý sẽ có vai trò lớn trong việc cung cấp những giải pháp cho các vấn đề này qua những phương thức thu thập và phân tích dữ liệu mà sẽ giúp phát triển những chiến lược can thiệp hiệu quả.
Sự đa dạng hóa dần dần ở khắp nước Mỹ khiến các nhà nghiên cứu tâm lý được nhiều người yêu cầu cho việc phát triển và cải thiện các cách điều trị và tiếp cận hiện có để đạt nhu cầu của nhiều người từ nhiều tộc và bản địa khác nhau.
Cũng như cách mà sự tiến hóa không ngừng của xã hội ảnh hưởng đến ngành nghiên cứu tâm lý, sự phát triển của công nghệ cũng đóng một vai trò trong những xu hướng trong ngành, như là:
Mạng Internet: Mạng Internet giúp thay đổi diện mạo của công việc thu thập và trao đổi thông tin. Những lợi thế, như là việc truy cập các nghiên cứu rộng rãi hơn, giúp cải thiện tính khoa học của tâm lý học. Các nhà nghiên cứu tâm lý học thường sử dụng các cơ sở dữ liệu phổ biến, như là PsychInfo và ERIC, để hỗ trợ trong quá trình đánh giá tài liệu.
Các nhà tâm lý học cũng dùng cả thông báo email để giữ cập nhật về các ấn bản hàng đầu trong ngành. Một số những lợi ích khác bao gồm khả năng giao thoa văn hóa từ những ý kiến khác nhau trong ngành, khả năng thí nghiệm trên mạng, và khả năng tập hợp dữ liệu cho việc phân tích thứ cấp.
Việc nghiên cứu online cũng có những thừ mà có thể gây tổn hại đến căn cứ và sự hiệu quả của nó, như là tiềm năng cho việc tạo dựng và tuyên truyền thông tin giả. Một trong những lý do đằng sau sự thành công của trang nhận ký Phòng Trống và Điều Trị của APA là tiêu chuẩn học bổng cao. Không phải nguồn nào cũng có chất lượng cao như vậy, và điều đó dẫn đến việc một số những nghiên cứu và phân tích bị thiệt hại trầm trọng.
Những nhà nghiên cứu mà sử dụng mạng cho việc thu thập thông tin cần phải tìm đến những phương thức và nguồn tin đáng tin, như những trang web được cấu hình đặc biệt, những kho dữ liệu danh giá và ngăn nắp, và các phần mềm hiệu quả.
Sự Phát Triển Về Mặt Phần Mềm Và Công Cụ: Sự Phát Triển Về Mặt Phần Mềm Và Công Cụ đóng vai trò lớn trong quá trình nghiên cứu của những nhà tâm lý học mà vượt xa việc phân bổ kết quả nghiên cứu và những cách thu thập thông tin thông thường. Thử lấy ví dụ là sự phát triển của công nghệ lập mô hình và hình ảnh điện toán - các nhà nghiên cứu sẽ có lợi từ việc có ảnh độ phân giải cao của não bộ để họ có thể đưa ra những chẩn đoán về các quá trình nhận thức.
Các ví dụ khác cho công nghệ hiện đại bao gồm: công nghệ chụp hưởng từ (MRI), công nghệ ảnh hồng ngoại, công nghệ lấy nét theo thời gian thực (Real-Time Tracking), công nghệ điều trị có sự hỗ trợ trên máy tính, và các công nghệ thông tin hiện đại như là các ứng dụng ghi âm và hình.
Các nhà tâm lý học thường sẽ được cập nhật về những thông tin mới trong ngành qua việc xem tin tức, dự hội thảo, tạo dựng kết nối với đồng nghiệp, và việc tiếp tục tìm hiểu trong lĩnh vực. Ví dụ như là các nhà nghiên cứu tâm lý có thể được đào tạo và có thêm thêm kinh nghiệm thực hành trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ các trung tâm đào tạo nâng cao (Advanced Training Institutes) của APA, một nơi mà cho phép họ được thử nghiệm với các công nghệ và các phương thức phổ biến và mới nhất.
Bạn có thể tìm hiểu về chuyên gia trị liệu tâm lý tại đây.
Để có thể vào được các lĩnh vực nghiên cứu và hàn lâm của tâm lý học, học sinh sẽ phải chuẩn bị cho quá trình học nâng cao sớm nhất có thể. Nó là một chặng hành trình dài và đáng giá mà yêu cầu tính kiên nhẫn và cần cù cao. Hiệp hội Tâm Lý học Mỹ (APA) khuyên là những học sinh quan tâm đến việc có sự nghiệp trong ngành nghiên cứu tâm lý sẽ cần phải “bổ béo” hồ sơ của họ, xuất bản một vài bài luận, và giữ tính linh hoạt giữa sự thay đổi liên tục của môi trường hàn lâm.
Nguồn: Choosing To Focus On Research As A Psychologist - Careers In Psychology (Careersinpsychology.org)
-
Viện Tâm lý Việt - Pháp
Trụ sở Hà Nội: Số 54 Trần Quốc Vượng, P. Dịch Vọng Hậu, Q. Cầu Giấy, TP. Hà Nội
Trụ sở TP.HCM: Landmark 81, Vinhomes Central Park, 720A Điện Biên Phủ, P.22, Q. Bình Thạnh, Tp. Hồ Chí Minh
Hotline: 0912.012.684 (Zalo, 24/7)
Email: daotao@tamlyvietphap.vn
Facebook: https://www.facebook.com/tamlyvietphap.vn
Link nội dung: https://melodious.edu.vn/tam-ly-hoc-nghien-cuu-cai-gi-a33158.html