Từ Xứ Đức Đọc Hồi Ký Tô Hoài
Trường Xuân Triệu
Tôi có cái may là được nằm vạ chờ xét tị nạn tại nước Đức mà không bị trục xuất ngay như nhiều đồng hương khác. Cái vạ chờ suốt chục năm có dư ấy quả thật dài và thừa lắm thời gian. Trong khúc đời "cảnh giả" cuả kẻ nhàn cư, may mà lâu lâu tôi lại được một người bạn, người quen gửi tặng một tác phẩm có xuất xứ từ trong nước. Đọc xong, tôi dùng cái dư thừa trên để ngẫm lại cái thủa mà mình từng bị gông cùm tư tưởng như các nhân vật của sách hay kể cả tác giả của nó. Tất nhiên, tôi cũng thấy ra những hạn chế trong cách nhìn nhận một số vấn đề về chủ nghĩa, chế độ chính trị, nền tảng xã hội, cách đánh giá lịch sử, quan niệm và sáng tác văn nghệ của những tác giả từng là bày tôi trung thành của đảng. Nay, đọc "Tô Hoài Hồi Ký" của một bạn gửi tới, tôi viết nhận định riêng của mình về cuốn sách của nhà văn từng gây ảnh hưởng cho nhiều người thuộc thế hệ chúng tôi, và cho lớp tuổi đương đại.
Vậy, xin giới thiệu với các bạn cuốn "Tô Hoài Hồi Ký"- tác phẩm tự thuật của nhà văn Tô Hoài do Nhà Xuất Bản Hội Nhà Văn Việt Nam phát hành 1000 cuốn vào tháng 3.1997, sách dày 736 trang, khổ 13 x 19, in tại Xưởng in Bộ Nông Nghiệp, và được giải thưởng Hồ Chí Minh năm 1996.
Hồi ký này được chia làm ba phần: Cỏ Dại, Tự truyện, Cát Bụi Chân Ai.
***
Vào bài mở đầu, phần "Cỏ Dại" viết từ năm 1943, ông (tác giả) kể mình dạy học kèm cho bé Tư, một em nhỏ gọi ông là cậu. Theo mạch tự chuyện, ông ôn lại thời thơ ấu không có tiếng cười của ông; và so sánh tuổi thơ lặng lẽ, dễ tủi thân chứ không được hồn nhiên vui tươi, chuyện líu ríu, cười như con nắc nẻ khi đến lớp học như bé Tư khi ấy. Ông ví mình đã sớm phải "phong trần" như đám cỏ hoang dại: "... Những ngày thơ ấu của nó (tác giả) leo hoang trong đám cỏ bên đường đi. Cỏ dại, cỏ không tên, rườm rà ken khít nhau bò ngẩn ngơ trong khoảng đất rác rưởi (tr-7)."
Tiếp, ông kể về làng quê ông và gia cảnh nhà ông. Đọc những trang ông tả về làng xóm và căn nhà cổ xưa thừa kế của họ ngoại ông, hẳn nhiều bạn ở tuổi "ngũ thập nhi tri thiên mệnh" thường sẽ chạnh lòng khi nhớ lại căn nhà xưa, làng xóm cổ kính xưa của mình. Sâu vào hoàn cảnh, ông giản lược kể về người cha: có cha mà người cha luôn biệt nhà đi xa kiếm sống; và cuối cùng người cha dứt bỏ hẳn vợ con. Bằng miệng của một bác người cùng làng bên họ nội từ Sài Gòn ra, ông thuật lại: "...Thày tôi lấy người ở Hanh Thông Tây làm nghề bánh tráng đã được hai con một trai một gái. Thày tôi bây giờ lòa cả hai mắt, đi phải chống gậy" (tr 113). Nỗi mất mát thiếu thốn tình cảm của người cha từ bé được ông kể song hành với cái tình săn sóc của mẹ, của ông bà ngoại với mình. Đồng thời, ông có thêm tình cảm của những bà dì ruột (Năm, Bảy), những cô em ruột (Hồ, Ngó), em họ (Châu, Nhâm), tuy chỉ loáng thoáng xen trong cảnh sống lận đận của toàn thể gia đình, họ hàng ông, nhưng nó vẫn toát ra sâu đậm cái nhớ thương của ông với họ. Đọc "Cỏ Dại", ta dễ cảm thông. Đọc xong, ta thấy mang mác khi thẩm nhận tuổi thơ cơ cực của ông qua lời văn giản dị mà giàu hình ảnh làng quê Việt Nam xưa sống động trong những trang hồi ký. Văn ông không triết lý mà tự nó có hồn, toát ra khéo đến nỗi gây xúc động bạn đọc có những mảnh quá khứ na ná như trên.
***
Trong "Tự Truyện", ở chương "Mùa Hạ Đến Mùa Xuân Đi" viết từ 1970, tác giả ý thức thuật lại hành trình tư tưởng của ông.
Kể lại tuổi thơ, ông cho biết rất sợ đi học, vì học thì dốt mà lại còn bị những kỷ niệm buồn chán bi đát ám ảnh. Nỗi sợ ấy có nguyên nhân từ một năm sống ở nhà chú Tưởng (một người bạn của cha) ở phố hàng Mã để chờ xin học. Tại đó, ông phải làm nhiều việc không mấy hứng thú cho gia đình chú Tưởng. Bởi thế, vốn sẵn bản tính không thích đến trường, chỉ thích dong chơi và tự học bằng quan sát thiên nhiên, khung cảnh xã hội quanh mình, nên trong những năm học ở trường làng ông đã chẳng gặt hái được bao kiến thức. Đã vậy, ngay buổi học khai trường và suốt năm đầu học ở trường Yên Phụ, ông và nhiều học trò cùng lớp còn bị thày Tỏi phạt đánh thậm tệ. Ông thừa nhận ông học dốt, dốt từ tiếng Pháp đến các môn học khác. Bằng giọng văn kể chuyện giản dị, ông ngầm tố cáo chế độ thực dân và phương pháp giảng dạy mang tính phong kiến lạc hậu của hệ thống giáo dục đương thời. Đây là cái tài dùng hành văn nhẹ nhàng mà đầy phê phán của ông. Cuối "Tự Truyện", qua mô tả gia cảnh và sinh hoạt nghèo túng nhà thầy giáo Tỏi, ông biểu cảm lòng thương mến của ông với người thầy mà ông đã có lúc rất ghét và rất sợ đó. Sự đổi thay ấy, khởi từ bản thân ông và dân tộc đang bị thực dân áp bức; tiếp đến việc con trai của thầy là anh Kính, một bạn học lớn tuổi cùng trường đã hoạt động "hội kín" (cộng sản) rồi bị mật thám bắt vì liên quan đến vụ ném truyền đơn vào sân trường Yên Phụ, cho ta thấy cảm nghĩ, lập trường, khuynh hướng chính trị thân cộng sản của ông có khởi xuất từ đấy. Để rồi, sau này ông đã hào hứng cùng những thợ dệt nghèo khổ vùng Vạn Phúc, Hà Đông lập hội ái hữu: tranh đấu chống bất công, thất nghiệp và nghèo đói. Cũng từ đây, dần dần tư tưởng ông chịu ảnh hưởng của những người mong sao cho "ngày mai tươi sáng, thế giới hạnh phúc, đại đồng".
Trong những trang viết kể về thời trai, thì mới 16- 17 tuổi ông đã phải gian nan kiếm sống bằng những nghề: dệt cửi, học đánh máy chữ, đi bán giày thuê cho hãng Bata, và lưu lạc xuống Hải Phòng tìm việc làm để tự nuôi thân và giúp đỡ gia đình. Ở phần hồi ức này của ông, ta thấy ông giỏi văn miêu tả, nhất là tả cảnh vật, nên dù ngôn ngữ giản lược, nhẹ nhàng mà bức tranh xã hội Việt Nam xưa hiện rõ mồn một: làng quê xám ngoét, xóm quê xơ xác tiêu điều, cả miềøn Bắc đều nghèo đói, lạc hậu; nhất làø cảnh dân đói và chết đói khủng khiếp năm 1945 đã được ông lột tả đầy đủ trong hồi ký. Bàn về xã hội, ông đã điển hình hóa sự lạc hậu, hủ lậu của thời đó: trai gái không được tự do yêu đương, tự do hôn nhân! Đó là chuyện bà mẹ của lý trưởng làng Bùng đã nhiều ngày âm thầm dùng cực hình quấn chặt bụng cô con gái có thai hoang với anh thợ cửi tên là Đành, để rồi, cuối cùng cô gái vì khổ cực kéo dài quá, vì bấn loạn sợ hãi quá mà phải trầm mình tự vẫn (tr. 149-153). Hay, chuyện ông Phán Quý ở Hải Phòng đã có "sáng kiến" giam bố mẹ mình vào cũi khi họ cãi nhau. Người con bất hiếu và tàn nhẫn này thản nhiên giải thích việc trừng phạt ấy: "Người già lẩm cẩm chúa hay cãi nhau đánh nhau, loạn quá! Bây giờ các "lúy" đương cơn tức nhau, "moa" mà thả các "luý" ra thì lung tung, đố các "vu" ở nổi cái buồng ấy. Cứ phải tống vào nhà pha vài hôm thế mới xong" (tr 211).
Ngoài miêu tả và phê phán xã hội thời thực dân- phong kiến, ông nhấn mạnh đến tình ái hữu giai cấp của ông và những thanh niên nghề cửi (Điều, Đành, Đồ Địch...); về tình bạn của các bạn ông (Cư, Hồ, Hiền...); về sự cao thượng mà hai vợ chồng Cần-Thúy dành cho ông trong thời gian sống tá túc tại nhà họ ở Hải Phòng để tìm việc kiếm sống. Tại đấy, khi không sao tìm được việc làm, ông đã phải chấp nhận gợi ý của Thuý: tán tỉnh bạn gái của Thúy- một cô gái nhảy nghèo để hòng kiếm nơi ăn chốn ở độ nhật. Vậy mà hy vọng ấy cũng không thành, vì ông vụng tán gái. Thêm vào cảnh "dậu đổ bìm leo" là việc do thấy ông tá túc tại nhà hàng xóm (Cần-Thúy) mà lại ngủ chung một giường với hai vợ chồng họ (nhà chỉ có một giường)ï, ông bà Phán Quý đã chửi móc, rồi chửi thẳng ông: "Này, này! Tối nay mà "vu" còn về đây tụ bạ vô luân lý sẽ có đội con gái đến điệu các "vu" về bóp"... (tr. 223). Nghe nhận lời đe dọa ấy, ông không dám cố đấm ăn xôi ở lỳ nhà bạn cũng đang nghèo kiết xác, đành buộc phải bỏû nhà họ cuốc bộ chuồn về Hà Nội, mà cũng chẳng chào vợ chồng bạn một tiếng.
Từ chương "Một Quãng Đường", ông kể nhà văn Như Phong đã giới thiệu ông với đoàn thể cách mạng (Việt Minh), ông "được giác ngộ và trở thành nhà văn có lý tưởng cộng sản." Ông thừa nhận bản thân đã ràng buộc với lý tưởng này từ khi hoạt động phong trào ái hữu thợ dệt Hà Đông. Thế rồi, kể từ khi bước vào nghề viết văn và chăm chỉ sáng tác để kiếm sống, ông đã quen biết hầu hết các văn nghệ sỹ cùng trang lứa, lớn hơn và nổi tiếng hơn khi đó. Ông giao du với những nhà thơ nhà văn: Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Huyền Kiêu, Nguyễn Bính, Kim Hà; biết Vũ Ngọc Phan, Nguyễn Công Hoan, Trương Tửu, Lan Khai, nhóm Tự Lực Văn Đoàn; thân với Nam Cao, Thâm Tâm, và Trần Huyền Trân (cùng nghèo và cùng chí hướng). Ông kể: "... từng đi uống rượu, hát ả đào, và đi đánh nhau hôi theo kiểu hội chợ với Nguyễn Bính" (tr 255).
Xen kẽ chuyện kể về những quan hệ bình thường trong làng văn nói trên, ông đưa ra những nhận xét về các nhóm văn hóa, xã hội thời đó. Ví dụ: Tự Lực Văn Đoàn là nhóm "... không dễ quen đâu: Cánh Tự Lực Văn Đoàn thì ăn mảnh. Vài người chơi với họ "thấy người quen bắt quàng làm họ", ra vẻ hí hửng" (tr 255);... "Có bạn tưởng văn chương hồi ấy chỉ có Tự Lực Văn đoàn. Không Phải. Bạn đọc Tự Lực nhiều, nhưng không phải là tất cả. Bạn đọc Tự Lực phần lớn là thầy giáo, công chức, thanh niên sinh viên học sinh. Nhóm Tự Lực là một số nhà văn muốn truyền bá một quan niệm, một lối sống, từ xã hội đến gia đình, đến cá nhân và tình yêu."..., "họ muốn làm cho văn chương kiểu đó được độc tôn. Không công nhận các dòng văn khác hoặc chỉ đề cao ai do mình tung lên. Thậm chí, dìm chết người viết khác lối văn của mình, như đối với Kim Hà và Phan Huấn Chương (theo chú thích của Tô Hoài: "Tiểu thuyết Rạng Đông của Phan Huấn Chương được Tự Lực trao giải ba, Cái Nhà Gạch của Kim Hà được giải nhất mà Tự Lực không in, tr- 278). Nhưng từ bắt đầu chiến tranh thế giới lần thứ hai, trong giông bão chống tai họa phát xít, bản thân văn đoàn này và người đọc cũng phân hóa. Những người chủ chốt trong nhóm Tự Lực: Hoàng Đạo, Nhất Linh, Khái Hưng... đi vào con đường chính trị thân Nhật (tr-179).
Bàn luận khuynh hướng văn nghệ và lập trường chính trị của nhóm Tự Lực xong, ông không quên kể chuyệïn đám thanh niên Tờrốtkít: "Khuynh hướng tờrốtkít không có sức hút về văn học. Nhưng họ hoạt động nhiều vì Pháp để yên và họ đã quẫy mạnh trong đám trẻ cầm bút. Tờ Tranh Đấu của nhóm tờrốtkít ở Hà Nội cũng ra bí mật. Những khẩu hiệu khoa trương khá hấp dẫn đã được nêu trong các cuộc đấu tranh đòi đời sống, lập ái hữu tiến tới nghiệp đoàn. Nhưng chỉ có khẩu hiệu, không có việc. Rồi cũng tan" (tr-279).
Với các nhóm xã hội có ảnh hưởng văn nghệ, chính trị lớn trong dư luận Việt Nam thời ấy thì ông có lời bàn chuyên về phêâ phán họ như vậy. Còn về mối quan hệ cuả làng văn Hà Nội với các nhà xuất bản khi đó, như với chủ nhà XB Tân Việt là Lê văn Văng, thì ông "tố": "các ông "Lan Khai, Trương Tửu đã xúm đến trổ tài đào tiền lão, lão sắp khánh kiệt" (tr 258).
Trong bối cảnh xã hội đầy những người xấu chơi như vậy, ông kể mình đã từng được Nguyễn Bính rủ đi "giang hồ" cùng Vũ Hoàng Chương. Ba người vào ả đào ở Bắc Ninh, lên thăm Bàng Bá Lân ở Bắc Giang. Lối đi chơi "giang hồ" này, ông khoe là tiêu tiền của người khác, ông và Nguyễn Bính không mất, chỉ Vũ Hoàng Chương chịu. Nối tiếp, ông cho biết ông và Nam Cao còn ăn cơm cả tháng ở nhà Vũ thi sỹ ở Nam Định mà không giáp mặt những người thân nhà này. Và, tới năm 1993 ông mới nghị bàn lối chơi đó: "Chơi thế phải mặt dầy đi chạy vạy chằng bửa. Nhưng lại thổi màu phiêu đãng bất cần đời lên mà làm thơ. Những "say đi em", "nghiêng nghiêng trần thế", "nàng tiên nâu" chỉ là "làm thơ" vậy thôi"... (tr 269). Hay: "Thời thế những năm ấy đã khác. Cái lãng quên và quay lưng (với thực tại) chỉ còn là sự gục đầu xuống"...(tr 269); "Đó là lớp người trôi như bèo trên mặt sóng" (tr 271).
Đoạn tuyệt với những cuộc hưởng thụ đầy màu phiêu đãng bất cần đời ấy, ông hồ hởi tham gia Việt Minh, và hoạt động dưới quyền những người: Như Phong, Vũ Quốc Uy, Trần Độ, và cùng nhóm với Nguyễn Huy Tưởng, Nguyên Hồng, Nam Cao...
Bàn về sáng tác văn nghệ của mình khi đó, ông viết: "Từ khi biết nghĩ điều hay cho những ao ước của mình, tôi chỉ một mạch nghĩ cho cách mạng. Nhưng ở cái chợ văn thời ấy eo sèo kẻ mua người bán, kẻ ra người vào. Ngót nửa thế kỷ văn học quốc ngữ, được dăm tác phẩm có giá trị. Còn thì người ta cầm bút không vì cái gì cả hoặc chỉ gãi cái thích của một số người đọc ít ỏi lúc ấy. Những nhân vật chàng nàng phù phiếm... Và nhảm nhí tệ hại, lướt qua bìa sách cũng đã thấy nặng mùi. Ngoại tình (Vũ trọng Can)... Thả Cỏ (Nguyễn Tố) ... Một đêm vớùi Dương Quý Phi (Trúc Định)... (tr 275). Và, đối lập với khuynh hướng sáng tác mà ông phê là "nhảm nhí, nặng mùi" ấy, ông kể và nhấn mạnh về những sáng tác mang hoài bão, lý tưởng tranh đấu của những văn nghệ sỹ cách mạng lớp ông: Tô Hoài (Xóm Giếng, Dế Mèn Phiêu Lưu Ký, Đám Cưới Chuột ), Nam Cao (Một Đời Người, Cơn Giông, Sống Mòn), Nguyên Hồng (Lửa, Nhân Loại, Ngày Mai, Cuộc Sống), Nguyễn Đình Thi, và Đặng Thai Mai(tr 285-288). Chen lẫn những nhân vật tích cực ấy, ông kể lướt về số phận những thanh niên không chịu giác ngộ cách mạng, bị ngờ là phản động và đã bị Việt Minh (đảng) trừng trị (thủ tiêu): Nguyễn Tế Mỹ và Nguyễn Đức Chính (tr 296). Đọc những dòng nặng tính phê phán văn nghệ cũ và khoe những tác phẩm của mình, của đồng đội mình nói trên, chắc có bạn đọc sẽ thắc mắc: chẳng hiểu ông "quên" hay sao mà không viết, hoặc không thấy phê phán nền văn nghệ nô nệ chủ nghĩa ngoại lai, đầy minh họa thời kỳ ông được đảng tín nhiêm cho làm Tổng Thư Ký Hội Văn Nghệ Hà Nội, kiêm Tổng biên tập tuần báo Người Hà Nội nhiều năm?
Phần hồi tưởng về hoạt động đảng phái thời ấy, ông kể chuyện ông và các đồng chí (Như Phong, Vũ Quốc Uy, Nam Cao, Nguyên Hồng) bị mật thám Pháp bắt, tra tấn dã man mà vẫn giữ vững khí tiết người cách mạng. Nhưng tờørốtkít thì thân Pháp, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Đại Việt thì thân Nhật. Việt Minh thì có tổ chức chặt chẽ, biết sáng suốt chớp đoạt thời cơ, như vụ Việt Minh điều động quần chúng ra vườn Bách Thảo (Hà Nội) phá cuộc mít tinh kỷ niệm Nguyễn Thái Học (tr 324-325) do Việt Nam QDĐ tổ chức. Tất nhiên, ngụ ý ông cho người đọc thấy, những phe khác (Quốc gia) rất là yếu kém tổ chức, và lầm lạc chủ thuyết...
Viết về những năm 1943-1945 (chương 1944-1945), ông kể lại hoạt động của ông trong phong trào Việt Minh, và nhấn mạnh vai trò chính trị của Việt Minh (CSVN) thời kỳ đó. Ông cũng không quên kể lại chiến lược tranh đấu của đảng qua việc khởi thảo Đề Cương Văn Hóa (1943), do Trường Chinh soạn, Hoàng văn Thụ góp ý, rồiø Trường Chinh sửa lại. Qua những hồi tưởng của ông, người quan tâm tới lịch sử nước nhà (1943-1945) đều không lạ quỷ thuật cài người thao túng Hội Truyền Bá Quốc Ngữ, lập đảng Dân Chủ VN, đảng Xã Hội VN, v.v của đảng Cộng Sản Việt Nam để chuẩn bị và cướp chính quyền. Và, khi cướp được chính quyền, thì áp dụng cơ cấu kiểm duyệt, khống chế văn nghệ nước nhà để ngu dân và nắm độc quyền cai trị. Bởi vậy, ta nhận ngay ra vai trò "người chiến sĩ trong mặt trận văn hóa của đảng" của Tô Hoài, qua lời ông thuật: "Tôi còn nhớ: Nguyễn Hữu Đang, Nguyễn Huy Tưởng (Hội Văn Hóa cứu quốc), Nguyên Hồng, Tô Hoài (Báo Cứu quốc), Trần Lâm, Nguyễn văn Thân, Trần Kim Xuyến (Đài phát thanh), Nguyễn Công Mỹ (Bình dân học vụ), Trần Huyền Trân (kiểm duyệt sân khấu), Như Phong (kiễm duyệt sách báo)" Thủ đoạn ấy của đảng ông, được ông coi như sự đề cao tài trí đảng mình, chứ không phải để phê phán phường gian trá xảo quyệt đã lợi dụng công lao xương máu dân tộc để cướp quyền và hưởng lợi! Rồi ông viết: "Nhớ lại chuyện hồi ấy bây giờ cũng có người không biết hoặc lẫn lộn". Nhưng không biết vì sao ông lại không kể rõ sự kiện "không biết hoặc lẫn lộn" là những gì, như thế nào? Có thể ông sao nhãng khi thảo hồi ký nên mạch chuyện có dẫn đề mà quên không dẫn chứng, hay do e ngại đảng phê mình? Riêng, với một người có ảnh hưởng lớn với phong trào ấy khi đó là Nguyễõn Hữu Đang thì ông có dành cho vài dòng hồi tưởng, chỉ vài dòng tóm lược thôi: "Nguyễn Hữu Đang thẳng tính và tính việc nhanh, ở cơ sở nào cũng thân như người nhà. Còn nhớ nhà ông Mai ở Hàng Điếu, ông thợ điện nhà máy điện Bờ Hồ nhà ở hàng Quạt mà chúng tôi đã đi ăn cưới con trai ông ấy, như ruột thịt.
Năm mươi năm sau, mới rồi, tôi được Phùng Quán và Phùng Cung mời đến dự cuộc mừng Nguyễn Hữu Đang 80 tuổi. Ông già vẫn độc thân Hôm ấy, Nguyễn Hữu Đang trịnh trọng cầm giấy phát biểu hùng biện, rành rẽ, mạch lạc một, hai, ba, bốn hô hào thanh niên cầu tiến tha thiết, vẫn thế, vẫn phong độ như ngày xưa Thôi cũng là đời. Nghe nói mấy lâu nay cụ nghiền ngẫm Lão-Trang" (tr-365-366). Âu, đây có lẽ là chút cảm thán của ông cho một người cùng chí hướng đã đối đãi thâm tình với ông khi ông gặp khốn khó (Hữu Đang ứng xử tốt với ông, và đã cho ông 5 đồng bạc khi đói) và người đó thuộc lớp những người mang công hãn mã dựng lên một chế độ, rồi bị chính nó hất xuống hố?
Cách mạng Tháng Tám thành công, ông được Trường Chinh chỉ định sang làm báo Cứu Quốc; đi Nam Tiến; ra Hà Nội; tháng 10.1946 được Xuân Thủy, là bí thư chi bộ giới thiệu, và kết nạp vào đảng cộng sản VN.
Thời kháng chiến chống Pháp, ông viết chương năm 1947. Chương này ông kể việc ông theo lệnh đảng di chuyển báo Cứu Quốc lên Việt Bắc và làm báo Cứu Quốc Việt Bắc với Nam Cao. Đây là thời gian nan của đảng ông, mà hành động quân sự nhảy dù xuống Bắc Cạn cuả Pháp đã gây ra những khó khăn trực tiếp cho bộ phận làm báo Cứu Quốc do ông phụ trách. Tại đấy, ông là bí thư chi bộ, và kết nạp Nam Cao vào đảng.
***
Đọc tới Cát Bụi Chân Ai trong hồi ký của ông, ta có thể coi đây là công trình điểm chọn nhân vật điển hình về văn hóa, văn nghệ Việt Nam suốt thời cách mạng tháng Tám, thời chống Pháp, thời đất nước chia cắt, và thời sau năm 1975 của ông. Ta thấy, ông kể lại nhiều chi tiết, nhiều điều riêng tư trong đời sống, trong sáng tác của phần lớn văn nghệ sỹ có tiếng tăm, cả đi theo đảng lẫn quay lưng lại với đảngï. Và, cũng từ những chuyện ấy mà chính sách chỉ đạo nền Văn Nghệ Hiện Thực Xã Hội Chủ Nghĩa của đảng bị phơi lưng trước dư luận.
Trong số những nhà văn nổi tiếng, người ông dành vị trí trang trọng từ mở đầu cho đến kết thúc hồi ký Cát Bụi Chân Ai là Nguyễn Tuân. Vào mở đầu, ông kể về khởi quan hệ của ông với Nguyễn Tuân, ảnh hưởng chữ nghĩa của văn Nguyễn Tuân với văn ông tới kết hồi ký là tin Nguyễn Tuân chết. Xen giữa mạch chuyện, là những việc xảy ra suốt mấy chục năm với vô số bạn bè thân thiết và các đồng chí của ông, và cả những người bỏ kháng chiến chạy sang hàng ngũ quốc gia, mà hầu hết họ là những gương mặt lớn trong nền văn nghệ VN từ tiền chiến đến 1975. Những văn nghệ sỹ này đi kháng chiến, bị nhào nặn trong tổ chức Việt Minh, rồi số lớn gia nhập đảng. Họ đã trở thành nạn nhân bị kiểm thảo, đấu tố trong những chiến dịch Chỉnh Huấn Chính Trị 1951-1953, Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm 1956-1958 mà đảng là tác giả.
Đi sâu vào nội dung chính Cát Bụi Chân Ai, ta thấy ông dựng lại một Nguyễn Tuân: xuất thân gia giáo, sớm có tư tưởng tự do, tài hoa văn chương, trọng nguyên tắc và kỷ luật, biết và kiểu cách hưởng thụ các thú chơi sang trọng (đi cô đầu loại sang, ẩm thực cầu kỳ), biết trọng tình nghĩa với vợ, biết giữ ân nghĩa với người tình và bạn bè, nhưng khó tính và luôn ca cẩm kẻ khác đến vô lối, lại còn thù lâu những kẻ mình không ưa (Nguyễn Hữu Đang, Minh Đức, tr. 472), hay những kẻ đã phê bình ông trong những chiến dịch chỉnh huấn chính trị, tư tưởng văn nghệ sỹ. Ví dụ, ông viết: "Chỉ Nguyễn Tuân mới nhớ lâu và để bụng những câu góp ý ấy" (tr 522). Nhân vật trang trọng ấy sau một số năm được chế độ đãi ngộ (đi công tác trong và ngoài nước liên tục, cao hổ cốt, rượu Tây thường có sẵn) đầy đủ, đến cuối đời đã rơi vào cảnh sống bệnh tật mà túng thiếu vật chất, vỡ mộng và bất mãn chế độ, rồi ông mang những ảo não ấy vào cõi vô cùng.
Sau Nguyễn Tuân, là đến hầu hết những khuôn mặt văn nghệ sỹ tiêu biểu ở lại miền Bắc sau 1954, như: Nguyễn Bính, Nguyên Hồng, Nguyễn Huy Tưởng, Xuân Diệu, Tú Mỡ, Trần Dần, Lê Đạt, Văn Cao, Nguyễn Sáng, Nguyễn Tư Nghiêm, Đặng Đình Hưng, Hoàng Cầm, Phan Khôi, Trần Đức Thảo, Phùng Cung, xin nêu ra vài khuôn mặt mà ông đã viết:
- Nguyễn Bính tư tưởng tự do, yêu đương, sinh hoạt bừa bãi, cảm xúc lãng mạn, rộng rãi với bạn bè, ở trong đoàn thể mà dám bất chấp nguyên tắc, kết cục đời bi thảm (vợ bỏ, con trai bị thất lạc), rồi chết vì trúng gió sau cuộc rượu ngày tết ở nhà bạn.
Nguyễn Huy Tưởng tính nồng nhiệt, trung thực và quý bạn cũng như luôn phát hiện mặt tốt của bạn. Tâm trạng thì luôn băn khuăn thời sự và chính trị. Dám chú tâm tới những vấn đề chết người, những vấn đề mà tư tưởng bị lộ ra là đảng quản chế hoặc cho đi suốt: bênh vực những người Hunggari nổi dậy năm 1956, ủng hộ Titô ở Namtư, không xu phụ vào hùa đánh những người làm báo Nhân Văn, thân với Nguyễn Hữu Đang, giao du với phần tử Tờrốtkít (482-485).
- Đặng Đình Hưng liên quan nhóm Nhân Văn, bị đảng khai trừ và ngăn chặn sáng tác, sống khổ cực và phải buôn rượu lậu để độ nhật. Mãi cho tới khi con trai là Đặng Thái Sơn thành đạt, ông mới thoát cảnh nghèo (tr. 494).
- Nguyên Hồng có nhiệt tình cách mạng, sáng tác giỏi, yếu đuối (hay khóc) khi bị đoàn thể kiểm điểm, nhưng khùng lên là bất cần, ăn uống phàm cẩu thả bừa bãi (xơi cả thịt ôi và rau bà đẻ), tính tính dễ dãi, giản dị và nhân ái(tr. 506- 508- 534).
- Về Xuân Diệu, ông không nói gì đến tài năng sáng tác trước cách mạng của thi gia này, mà chỉ kể về một Xuân Diệu chi li đầy nữ tính: viết lách sáng tác, nói năng bài bản máy móc, quá săn sóc cho thực đơn khi làm khách dự, hám ăn đến nỗi cấp cứu vào bệnh việân là chuyện thường. Khốn nhất, thi gia này còn là kẻ bất hạnh giới tính. Qua chuyện kể thời kháng chiến, vào một đêm mưa ông ngủ lại nhà Xuân Diệu và được con người đồng tính ấy làm tình: "Chúng nó sợ (đồng đội của Xuân Diệu)ï, đi bỏ trống cả cơ quan. Cả dạo mưa gió Xuân Diệu ở lại u tì quốc không ra ngoài... Bàn tay ma ở đâu sờ vào. Không phải. Tay người,... hai cơ thể con người quằn quại, quấn quýt, cánh tay, cặp đùi thừng chão trói nhau lại, thít lại, dằng ra. Niềm hoan lạc trong tôi vỡ ra, dữ dội lên, dằn ngửa cái xác thịt kia" (tr. 599) Cứ thế, rồi tới dịp nhà thơ bị đơn vị kiểm điểm hai tối: "Xuân Diệu chỉ ngồi khóc. Chẳng biết Nam Cao, Nguyễn Huy Tưởng, Trọng Hứa, Nguyễn văn Mãi, cả lão Hiến, thằng Nghiêm Bình, những thằng Đại, thằng Đắc, Tô Sang và mấy thằng nữa, có ai ngủ với Xuân Diệu không, tất nhiên không ai nói ra" (tr.601). Đọc xong, ta sửng sốt với tiết lộ trên, đồng thời thấy tội nghiệp cho thiên tài thơ yêu Xuân Diệu, đầy hào quang mà đời thì lại bi kịch như vậy.
Tóm lại, ngoài việc kể về cuộc đời mình, ông còn thông qua chuyện mình để kể về những người liên đới, mà hầu hết đều bị đảng ngược đãi. Trong những trang viết liên quan ấy, ông kể những lời mỉa mai chế độ của Nguyễn Tuân khi ở thời sa sút vật chất đã nói với ông: "Mỗi khi ở sân bay Gia Lâm về qua cầu Long Biên, ra ngã sáu dốc hàng Kèn làm cuộc tẩy trần bát cháo gà lãõo Chữ cũng phải nhẩm xem trong túi có bao nhiêu. Mới nhớ ra cái vé máy bay, cái tiền ăn và tiền tiêu vặt hàng ngày là của người ta cho, chẳng phải đồng nào của nước mình, của mình. Có ra gì mà vênh! Dần dần đến bây giờ, thế này đây, cái thằng nhà văn (tr720)!" Hay: "Đấy, lại mất điện. Tiến lên công nghiệp nặng của ông Lê Văn Lương ở thành phố này là phải trữ cái đèn Hoa Kỳ (đèn dầu hỏa). " Đọc đoạn văn ấy, ta có thể đổi lại thành: Đấy, lại mất điện. Tiến lên công nghiệp nặng của ông Hồ Chí Minh ở thành phố này, ở đất nước này là phải trữ cái đèn Hoa Kỳ.
Xen kẽ giữa thuật lời bất mãn ấy, ông kể lại chuyện thời Chỉnh Huấn Chính Trị 1951 (theo phương pháp Hoa Nam), Giảm Tô và Cải Cách, hay Nhân Văn Giai Phẩm. Những sự kiện chính trị lớn ấy mà ông chỉ giản lược hóa, nhưng đủ gợi cho ta thấy việc đảng hành hạ đảng viên và quân cán binh thời đó đến nỗi: "Khổ một nỗi, có người nghe phê bình, cứ tiếp thu thun thút, còn minh họa thêm nỗi mình cho to ra thêm nữa. (Vậy mà) Cũng không được tin, lại bị tố cáo là hời hợt, trốn đấu tranh. Có người bỗng nhận thấy mình sai, nhận ngay cũng lại bị cho là nông cạn, con vẹt, thiếu đào sâu suy nghĩ."... "Tôi dự cuộc chỉnh huấn đã nhiều, có người lo quá, cả tháng không chợp mắt, như ở báo Cứu Quốc, một cậu còn trẻ, đã vào rừng thắt cổ (tr 523)... "Họa sỹ Nguyễn Tư Nghiêm tham gia cuộc Giảm Tô ở Thái Nguyên (1951)... Đội viên Nguyễn Tư Nghiêm loay hoay cả tuần không bắt được rễ, không xâu chuỗi được một cố nông nào. Nguyễn Tư Nghiêm hoảng quá phát dại, đi không nhớ đường về xóm. Suốt ngày vơ vẩn ngoài đồng, bắt cào cào, châu chấu ăn" (tr.524)... Hay, ta có thể tìm thấy tản mát trong hồi ký ông những đoạn nói về mặt trái của chế độ XHCN. Đó là những vụ án hình sự ở Hà Nội thời cả nước đang đánh Mỹ, miền Bắc đang bị chiến tranh không quân tàn phá mà đã xuất hiện nạn ăn chơi trác táng của những cán bộ phòng tài vụ nhà máy điện Yên Phụï, của đám thị dân Hà Nội (tr. 685-686), v.v... Việc này, cho ta thấy không phải là do tàn dư Mỹ-Ngụy gây ra như đảng thường rêu rao, mà nó là cái xảy ra rất thường tình trong bất cứ môi trường xã hội nào.
Và, từ rất nhiều trang hồi ký "Cát Bụi Chân Ai", ta thấy ông kể lại rất kỹ lưỡng lối sống, cách thức sinh hoạt cảnh giả cầu kỳ của Nguyễn Tuân; những chuyến đi công tác nước ngoài nặng vai trò sứ giả văn hóa của chế độ của ông, thì ngược lại ông không quên cài lời phê phán những đối thủ tư tưởng hay chính trị đối lập khác: Tự Lực Văn Đoàn, Tờrốtkít, Đại Việt... và những người kháng chiến quay. Ơû những đoạn văn viết về những thành phần đối lập đó, thoạt đọc thì ta thấy thoáng thôi nhưng thực ra ông cố giữ khoảng cách tư tưởng với họ, và còn phê bình họ. Ví dụ, khi ông viết về Phạm Duy: "Phạm Duy và Thái Hằng ở Thanh Hóa ra (Phù Ninh- Phú Thọ). Có một hội nghị quốc tế về âm nhạc ở Rumani, Phạm Duy chuẩn bị đi. Tôi không biết hội nghị hoãn hay vì đường xá cách trở, bấy giờ xe lửa Bằng Tường- Nam Ninh chưa có, cuộc đi lại thôi. Vợ chồng Phạm Duy trở về khu bốn. Chỉ có như vậy, không lắm chuyệïn như Phạm Duy đã viết trong Hồi Ký thời cách mạng, kháng chiến" (tr. 593). Ngoài ra, ông mang cách nhìn đầy màu quan điểm của Đảng để phê phán tư tưởng yếm thế của số đông văn nghệ sỹ khác, như với những người ông từng giao du thân mật: Vũ Hoàng Chương, Đinh Hùng, Nguyễn Bính. Ví dụ: "Những câu chuyện tình dài ngắn thuở ấy. Triều miên những đêm nhà hát Vạn Thái hay Vĩnh Hồ, những tuyệt vọng và những bài thơ, những chuyện có thật và những tô vẽ cho hoa mỹ. Nguyễn Bính thì cố nhân Hương, Hương cố nhân, Đinh Hùng thì em Liên hàng Bạc... Vũ Hoàng Chương thì Tố Uyển, Tố Uyên. Tàu Chantily, một thấp thoáng chiêm bao, "Tố của Hoàng ơi" thì vẫn neo lại trong tâm tình. Nhưng chỉ là những bài thơ, còn nàng thì đã lấy chồng. Các chàng lạy nhau, tôn nhau lên thành đấng rồi vừa khóc vừa đọc thơ, nghe tiếng trúc Cao Tiệm Ly thổi khi Kinh Kha qua sông Địch. Những bài thơ tuyệt vọng cứ tưởng tượng ra như thế."
Qua những dòng kể ấy, ta thấy ông đánh mất tình xưa với bạn cũ khi dùng quan điểm chính trị đảng phái để phê phán sáng tác của họ. Trong số ấy, có người đã chết thảm trong tù ngục cộng sản sau năm 1975 (Vũ Hoàng Chương), hay đã chết khổ như Nguyễn Bính.
Kết luận: Đọc hồi ký Tô Hoài, ta thấy đúng một phần như nhận định của một số người: "Trong Cát Bụi Chân Ai có quá nhiều "vấn đề" động tới nhiều người. Còn một số người nhận xét: "Nhưng cái chính, tác giả đã "đi quá đà". Cát Bụi Chân Ai bị lặng lẽ thu hồi", thì ta thấy nhóm "canh cửa văn hóa" của đảng quả hơi khó tính với một đồng nghiệp cũ (Tô Hoài). Bởi, dù ông có kể lại những sự thực thời Chỉnh Huấn Chính Trị (1951-1953), Cải Cách Ruộng Đất, Nhân Văn Giai Phẩm và gián tiếp phê bình đảng thì cũng chỉ là việc nhắc lại những tội của đảng mà bàn dân thiên hạ đã biết chán chê rồi, chứ ông có dám bình xét phê phán gì đảng đâu. Đổi lại, như đã nói ở phần trên, ông còn góp tiếng cho đảng, như một chứng nhân cho đảng để phê phán quan điểm sáng tác của những văn nghệ sỹ, hay tội hoạt động chính trị thân Nhật- Pháp của những thành phần quốc gia khác.
Xét kỹ tư cách ông, ta có thấy đôi khi ông có chút công bằng khi viết về bản thân. Chẳng hạn, ông nhắc lời Nguyễn Tuân nhận xét tính cách của ông: "Chó biết thằng này thế nào là thật! Tao ghét cái cười mủm mỉm hiền lành không biết hiền lành của mày (tr. 588)", hay thuật lại lời Như Phong: "thằng ngoại ô láu cá, văn chương thì đẽo gọt (tr. 529)". Nhưng, ngẫm cho kỹ ta sẽ thấy sau nhiều năm phụng sự trung thành và được chứng kiến rất nhiều chính sách sai lầm của đảng mà khi viết hồi ký cuộc đời thì ý thức ông vẫn chưa dứt ra khỏi định hướng chính trị của đảng. Và, ông đã tỏ rõ mình đúng là người mang nặng hoài bão với chủ nghĩa cộng sản, với đảng của ông nên dù cố gắng lắm mà ông mới chỉ dám giản lược kể lại chuyện thời Chỉnh Huấn Chính Trị (1951- 1953), thời Cải Cách Ruộng Đất, thời Nhân Văn Giai Phẩm Ông chỉ kể lại thôi, chứ không phê bình sai lầm (tội) của đảng. Đối lập lại, khi kể về người quen xưa đã sang hàng ngũ quốc gia thì chút tình bạn trong ông cũng bị quan điểm hóa làm méo mó, khiến ông kể về những người đó thiếu công bằng, nên người đọc chỉ thấy một mặt sự việc, hành động của người ấy, như: Vũ Hoàng Chương hay những người đại diện nhóm Tự Lực Văn Đoàn, và kể cả những người đồng chí liên quan nặng trong vụ Nhân Văn Giai Phẩm ông cũng né tránh viết rõ về họ.
Gấp lại trang cuối hồi ký, ta lấy làm tiếc cho một người đã đứng trong làng văn chương Việït Nam suốt một giai đoạn lịch sử đầy biến cố từ khoảng 1943 cho đến khi viết xong chương cuối hồi ký Cát Bụi Chân Ai vào năm 1993, vì tự và bị nhuộm đỏ tư tưởng mà thành bị tiêu tùng cái đức của người cầm bút quân tử. Viết "di chúc" cho đời sau mà ông không vượt lên khỏi cách nhìn thời thế hạn chế của một đảng viên đã từng được đảng đãi ngộ nên cuốn hồi ký tuy tải rất nhiều thời gian và sự kiện lịch sử, tiểu sử con người, nhưng chỉ nặng phần tự thuật.
Đức Quốc cuối tháng 3 năm 2001.
Trường Xuân Triệu