Phía Đông và phía Bắc giáp huyện Chợ Gạo, phía nam giáp sông Tiền và tỉnh Bến Tre, phía Tây giáp huyện Châu Thành. Năm 2017, thành phố Mỹ Tho có 17 đơn vị hành chính cơ sở (gồm 11 phường: 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10 và Tân Long; 6 xã: Bình Đức, Mỹ Phong, Phước Thạnh, Tân Mỹ Chánh, Thới Sơn, Trung An ); dân số có 244.000 người với 4 tộc người chính: Kinh/Việt, Hoa, Ấn và Khơme. Có 4 tôn giáo chính: Công giáo, Tin lành, Phật giáo và Cao đài.
Thành phố Mỹ Tho có Quốc lộ 1 chạy qua, nối TP Mỹ Tho với các huyện Châu Thành, Tân Phước, Cai Lậy, Cái Bè và thị xã Cai Lậy; có Quốc lộ 50 đi về các huyện Chợ Gạo, Gò Công Tây, Gò Công Đông, Tân Phú Đông và thị xã Gò Công; Đường tỉnh 864 chạy dọc sông Tiền lên Châu Thành, Cai Lậy, Cái Bè; có Quốc lộ 60 và cầu Rạch Miễu nối thành phố Mỹ Tho với tỉnh Bến Tre. Thành phố Mỹ Tho có 75 tuyến đường, trong đó có 68 tuyến đường nội ô. Từ thành phố Mỹ Tho có thể dễ dàng đi bằng đường thủy hay bằng đường bộ lên thành phố Hồ Chí Minh hoặc xuống các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long hay tiến ra biển, thậm chí đến tận thành phố Phnôm Pênh (thủ đô của Campuchia).
Một góc TP. Mỹ Tho nhìn từ trên cao - Ảnh: Duy Anh
Trong thành phố có con kênh quan trọng là Bảo Định chia thành phố Mỹ Tho thành 2 khu vực tả ngạn và hữu ngạn. Đặc điểm nổi bật trong cảnh quan địa lý là vườn cây ăn trái ở các xã ven nội ô thành phố. Vườn cây đã tạo thành vành đai xanh của thành phố, bao bọc khu nội ô, tạo nên địa hình khá đặc biệt. Trong nội ô có hồ nước Mỹ Tho, dân gian quen gọi là giếng nước, được đào năm 1927, hiện là công viên Tết Mậu Thân, nơi điều hòa nhiệt độ và là lá phổi của thành phố. Cảnh quan thành phố càng nên thơ hơn với sự tiếp nối đan xen giữa phố phường, vườn cây, đồng ruộng, sông rạch với ưu thế trên, ngay từ những năm đầu mới hình thành đô thị Mỹ Tho, cũng như hôm nay thành phố Mỹ Tho luôn là trung tâm kinh tế chính trị, văn hóa của toàn tỉnh, đồng thời là trung tâm giao lưu quan trọng của miền Trung Nam bộ, là cầu nối giữa các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long với thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền Đông Nam bộ.
*
* *
Từ thế kỷ 17, Mỹ Tho đã được lưu dân người Việt từ miền Trung, miền Bắc vào khai hoang, lập ấp. Trải qua quá trình lao động gian khổ, anh dũng, bền bĩ và sáng tạo, cùng với một số chính sách khuyến khích khai hoang của chúa Nguyễn, lưu dân người Việt đã biến Mỹ Tho, từ một vùng đất hoang vu trở thành nơi trù phú, có nền sản xuất nông nghiệp phát triển và đời sống của cư dân ngày càng ổn định.
Năm 1679, một nhóm người Hoa, vốn là bề tôi của nhà Minh, vì chống đối nhà Thanh, di trú sang nước ta. Được sự đồng ý của chúa Nguyễn Phúc Tần, nhóm người Hoa này, dưới sự hướng dẫn của 2 vị quan của phủ Chúa là Xá sai Văn Trinh và Tướng thần lại Văn Chiêu, đã vào Mỹ Tho lập nghiệp. Ở vùng đất mới, những người Hoa này tự gọi là Minh hương với nghĩa là "con cháu của nhà Minh" để nhắc đến nguồn gốc cũ.
Tại Mỹ Tho, người Minh hương chủ yếu làm nghề buôn bán và lập ra Mỹ Tho đại phố, tức chợ phố lớn Mỹ Tho, ở thôn Mỹ Chánh. Lúc bấy giờ, ngoài thôn Mỹ Chánh, người Việt còn thành lập ở khu vực này nhiều thôn khác, như Bình Tạo, Điều Hòa, Phú Hội, Đạo Ngạn, An Hòa, Mỹ Hóa, v.v… Đến cuối thế kỷ XVII, chúa Nguyễn cho phép người Hoa được thành lập làng Minh Hương. Theo Phan An trong bài viết Người Hoa ở Nam Trung bộ và Nam bộ thế kỷ XVII - XIX, "đây là cộng đồng những người Trung Hoa nhập cư tương đối ổn định và đã hội nhập vào cộng đồng Việt Nam được chính quyền phong kiến Đàng Trong xem là thần dân của mình. Làng Minh Hương về cơ bản cũng giống như những làng khác ở Việt Nam, là một tổ chức hành chánh cơ sở của phong kiến Việt Nam". Tuy nhiên, do ở địa bàn Mỹ Tho, làng xã của người Việt đã được thành lập từ trước, nên làng Minh Hương của người Hoa ở tại đây phải "ở nhờ trên đất thôn Mỹ Chánh".
Mỹ Tho đại phố nằm dọc theo nhánh bên trái của rạch Mỹ Tho; bắt đầu từ bến Tắm Ngựa ở chỗ giao nhau giữa rạch Mỹ Tho với sông Tiền (nay thuộc phường 2, TP Mỹ Tho), chạy dài theo đường Nguyễn Huỳnh Đức khoảng 4 km (nay thuộc phường 2 và phường 8, TP Mỹ Tho), cho đến cầu Vỹ, Gò Cát (nay thuộc xã Mỹ Phong, TP Mỹ Tho). Do được thành lập ở ngã ba sông, nên ngôi chợ này có khả năng quy tụ ghe thuyền, vật lực từ các địa phương khác; và từ đó lan tỏa ra khắp nơi, thông thương với các trung tâm thương mại lớn ở trong nước, kể cả với nước ngoài.
Trên cơ sở những thành tựu của sản xuất nông nghiệp và đời sống của cư dân đã đi vào nề nếp, khối cộng đồng dân tộc Việt/đa số/nông nghiệp và Hoa/thiểu số/thương nghiệp đã chung sức đồng lòng, ra sức phát triển Mỹ Tho, để nơi đây trở thành một trong hai trung tâm thương mại lớn nhất được thành lập đầu tiên ở Nam bộ.
Từ chợ phố lớn Mỹ Tho, thuyền buôn ngược dòng sông Tiền theo hướng tây lên Cai Lậy, Cái Bè và xa hơn nữa là Cao Miên (Campuchia); hoặc xuôi dòng sông Tiền về phía đông đến Chợ Gạo, Gò Công, rồi ra cửa Tiểu, sau đó đến chợ Sài Gòn hay Phú Xuân - Huế; hoặc theo kênh Bảo Định qua sông Vàm Cỏ Tây, Bến Lức đến chợ Sài Gòn. Không chỉ thế, chợ phố lớn Mỹ Tho còn là thương cảng có quan hệ buôn bán với nước ngoài. Hoạt động chính yếu, nhộn nhịp, sầm uất của Mỹ Tho đại phố là nội thương và ngoại thương. Chính vì vậy, trong quyển Gia Định thành thông chí, Trịnh Hoài Đức chép về sự phồn thịnh của chợ phố lớn Mỹ Tho như sau : "Phía nam trị sở là chợ phố lớn Mỹ Tho, nhà ngói cột chạm, đình cao, chùa rộng, ghe thuyền ở các ngả sông biển đến đậu đông đúc, làm một đại đô hội, rất phồn hoa, huyên náo"; và "phàm thuyền buôn các nơi qua lại phải đậu nghỉ ở sông Mỹ Tho, hóng mát, xem trăng, đợi con nước lên, thuận dòng lên tây hay xuống đông".
Sự sung thịnh của chợ phố lớn Mỹ Tho chứng tỏ sản xuất nông nghiệp và nền kinh tế hàng hóa ở đây đã có những bước phát triển đáng kể. Nông sản không chỉ đủ dùng cho nhu cầu của cư dân Mỹ Tho, mà còn dư ra với số lượng lớn, trở thành hàng hóa được buôn bán trên thị trường cả nước và xuất khẩu ra nước ngoài. Như vậy, thế mạnh vượt trội của Mỹ Tho đại phố là thương mại; và thương mại ở đây đã vươn ra tầm thế giới. Thế mạnh đó bắt nguồn từ sự gắn kết giữa sản xuất nông nghiệp với chế biến và xuất khẩu nông sản, nhất là thóc gạo, cau khô và thủy sản.
Sau đó, đến năm 1781, do vị thế "đắc địa", nhất là do sự sung túc, sầm uất của Mỹ Tho đại phố trong suốt 102 năm phát triển (1679-1781), chúa Nguyễn cho dời trị sở của dinh Trấn Định từ giồng Kiến Định (nay thuộc thị trấn Tân Hiệp, huyện Châu Thành) về thôn Mỹ Chánh - chợ Mỹ Tho ở phía tả ngạn kinh Bảo Định (nay thuộc phường 2 và phường 8, TP Mỹ Tho) .
Tiếp theo, đến năm 1792, thành Mỹ Tho được dựng lên. Lúc bấy giờ, cả Nam bộ chỉ có hai thành được xây dựng với quy mô lớn là thành Mỹ Tho và thành Gia Định. Thành Mỹ Tho do Trần Văn Học vẽ thiết kế theo kiểu thành Vauban của phương Tây. Trịnh Hoài Đức mô tả ngôi thành như sau: "Thành có dạng hình vuông, chu vi 998 tầm, có mở hai cửa ở phía tả và phía hữu, nơi cửa có xây cầu bắc qua hào, hào rộng 8 tầm, sâu 1 tầm, dưới cầu có cửa cống nhỏ để lưu thông với sông lớn (sông Tiền - Người viết), ngoài hào có đắp lũy đất, có cạnh góc lồi ra hũng vô như hình hoa mai, chân lũy mặt tiền 30 tầm thì đến sông lớn. Trong thành có những kho gạo, kho thuốc đạn, trại quân và súng lớn, tích trữ đầy đủ, nghiêm chỉnh"(1).
Như vậy, đến cuối thế kỷ 18, do đã có phố chợ buôn bán náo nhiệt; đã có hệ thống hành chánh hoàn chỉnh và đã có ngôi thành kiên cố với đội quân thường trực bảo vệ thì Mỹ Tho đã trở thành một đô thị đích thực, vừa là trung tâm kinh tế - thương mại, vừa là trung tâm chính trị - hành chính của dinh Trấn Định nói riêng và cả vùng đồng bằng sông Cửu Long nói chung.
Năm 1808, trấn Định Tường được thành lập; và lỵ sở của trấn vẫn được đặt tại thôn Mỹ Chánh - chợ Mỹ Tho. Năm 1826, do yêu cầu phát triển của đô thị Mỹ Tho, vua Minh Mạng cho dời lỵ sở của trấn Định Tường từ nơi cũ sang địa điểm mới ở về phía hữu ngạn kinh Bảo Định thuộc hai thôn Điều Hòa và Bình Tạo (nay là các phường 1, 4, 7, TP Mỹ Tho). Theo đó, thành Định Tường được dựng lên. Thành này do Tổng trấn Gia Định thành Lê Văn Duyệt trực tiếp chỉ huy khoảng 11.000 nhân công xây dựng. Theo quyển Đại Nam nhất thống chí, thành Định Tường được đắp bằng đất, hình vuông, chu vi 320 trượng (khoảng 2.000 m), cao 9 thước 5 tấc (khoảng 4,5 m), mở 4 cửa, hào rộng 8 trượng (khoảng 3 m), sâu 6 thước 5 tấc (khoảng 3 m) http://tgu.edu.vn/Pages/TGU/TopicDetail/5686 - _ftn3(2). Trong quyển Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, Léopold Pallu mô tả ngôi thành như sau: "Thành Mỹ Tho xây theo lối châu Âu. Thành vuông vức, có ụ làm pháo đài. Hào chung quanh rộng có nước, tường thành cao và rất dày. Xung quanh thành là đầm lầy. Khí giới của thành có đại pháo nòng lớn. Thành kiểm soát hết sông Tiền Giang và các đường thuỷ đổ vào sông này".
Ngay sau khi thành Định Tường được dựng lên, có một thương nhân tên là Dương Tấn Tuyên cho xây một ngôi chợ mới tọa lạc về phía đông của ngôi thành, nên dân gian thường gọi là chợ Thành. Đây là ngôi chợ có hoạt động nội - ngoại thương rất nhộn nhịp. Điều đó đã làm cho Mỹ Tho trở thành một đô thị lớn mang tầm vóc quốc tế của nước ta trong nửa đầu thế kỷ XIX. Trong quyển Lịch sử cuộc viễn chinh Nam Kỳ năm 1861, Léopold Pallu viết: "Sài Gòn là trung tâm quân sự, Mỹ Tho là trung tâm thương mãi. Các ghe thuyền của người Nhật Bản, người Trung Hoa, người An Nam, người Xiêm (Thái Lan) có đáy cạn dễ di chuyển trên sông gần nơi sản xuất gạo, khiến cho Mỹ Tho trở thành trung tâm buôn bán lớn nhất của Nam kỳ, trước khi người Âu đến ... Mỹ tho còn là vựa thóc lại vừa là thị trường lúa gạo quan trọng của cả An Nam…".
Do kinh tế phát triển nên đời sống của cư dân ở Mỹ Tho ngày càng ổn định và có cảnh quan tươi đẹp với nhà cửa khang trang, vườn ruộng trù phú. Theo Léopold Pallu, "Mỹ Tho là một vùng có nhà cửa rộng lớn, lợp bằng là dừa nước theo tập quán. Nhưng dọc theo bờ kinh Bưu Điện (Arroyo de la Poste hay kinh Bảo Định), nhà cửa thanh nhã hơn nhiều, mái lợp ngói giữa những vườn dừa, vườn cau, tất cả có vẻ trang nhã, phong lưu, đôi khi giàu có. Có thể so sánh với cảnh phồn hoa đô hội của Chợ Quán và kinh Tàu Hủ ở Sài Gòn...".
Tại lỵ sở mới, ngoài việc xây dựng tỉnh thành, chính quyền nhà Nguyễn còn tiến hành xây dựng các công trình khác nhằm phục vụ cho mục đích phát triển kinh tế và văn hóa - giáo dục, như trường học của tỉnh (1826), đàn Tiên nông thờ thần Nông (1832), đàn Xã tắc thờ thần Đất nước (1833), chợ, cửa quan thu thuế (1835), miếu Thành hoàng (1848), v.v…
Vào đầu thế kỷ XX, Mỹ Tho là địa bàn trung chuyển quan trọng nhất nối Sài Gòn với các tỉnh miền Tây Nam kỳ và ngược lại bằng hệ thống hạ tầng kinh tế - kỹ thuật phát triển: đường xe lửa Sài Gòn - Mỹ Tho, được xem là đường xe lửa được hình thành đầu tiên ở Việt Nam; đường tàu thủy Mỹ Tho - Nam Vang. Quyển Địa phương chí tỉnh Mỹ Tho năm 1902 cho biết: "...Vị trí của Mỹ Tho thật tuyệt diệu. Nó chiếm một vị thế trung chuyển quan trọng vào bậc nhất cho các loại ghe chài to lớn từ miền Tây lên Chợ Lớn (Sài Gòn) qua con kinh Bảo Định và con kinh Chợ Gạo. Mỹ Tho lại có con đường sắt đầu tiên của Đông Dương, con đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho và con đường thủy nối liền Sài Gòn và các tỉnh miền Tây lên tận Pnôm Penh qua bến tàu lục tỉnh Mỹ Tho...".
Nông sản, nhất là thóc gạo, là mặt hàng được buôn bán chủ yếu tại Mỹ Tho. Địa phương chí tỉnh Mỹ Tho năm 1902 viết: "Việc thương mãi tổng quát của chợ Mỹ Tho, trước hết là việc xuất cảng lúa gạo. Lúa gạo được sơ chế; và sau đó, được chuyển về địa chỉ của các nhà máy xay xát gạo ở Sài Gòn và Chợ Lớn. Tại đó, gạo được chà sạch; rồi vận chuyển ra Trung kỳ hay Cambốt (Campuchia). Những loại trái cây, lá trầu rang cũng được xuất lên Cambốt". Quyển Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca của Nguyễn Liêng Phong cũng chép tương tự :
Buổi mơi, buổi tối, buổi trưa,
Tàu đò, xe lửa, rước đưa liền liền.
Đầu đường sáu tỉnh mối giềng,
Tiệm ăn, tiệm ngủ (3) khỏe yên bộ hành.
Hoạt động buôn bán ở chợ Mỹ Tho diễn ra rất tấp nập. Sau đây là cảnh trên bến dưới thuyền của ngôi chợ này trong quyển Nam kỳ phong tục nhơn vật diễn ca:
Mỹ Tho nguyên tỉnh Định Tường,
Phía tiền một dãy, phố phường quá đông.
Trên bờ hàng hóa thạnh sung,
Dưới sông ghe đậu chật cùng ngoài trong.
*
* *
Song song với quá trình khai mở đất đai và phát triển kinh tế, nhân dân Mỹ Tho luôn phải đối phó với giặc ngoại xâm. Năm 1705, quân Cao Miên thường kéo đến quấy phá, cướp bóc. Chúa Nguyễn sai Nguyễn Cửu Vân đắp lũy và đào kinh Bảo Định để chận đánh địch khiến bọn chúng phải đại bại rút quân về nước. Năm 1785, dưới sự chỉ huy của Nguyễn Huệ, nghĩa quân Tây Sơn và nhân dân Mỹ Tho đã đánh bại quân Xiêm xâm lược tại đoạn sông Tiền từ Rạch Gầm đến rạch Xoài Mút. Viết về sự kiện này, sử triều Nguyễn ghi:"Kể từ sau trận Giáp Thìn, người Xiêm sợ quân Tây Sơn như sợ cọp". Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Mỹ Tho đã cùng với nghĩa quân Tây Sơn đánh bại sự xâm lược hung hãn của bọn phong kiến Xiêm, giữ vững nền độc lập dân tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ thành quả khai hoang của nhân dân Nam bộ.
Dưới thời thuộc Pháp (1861 - 1954) và dưới thời chính quyền Sài Gòn (1954 - 1975), mặc dù trải qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính và tên gọi, nhưng Mỹ Tho vẫn luôn là tỉnh lỵ. Đối với khu vực, Mỹ Tho là trung tâm của vùng Trung Nam bộ, là đầu mối giao thông thuỷ - bộ nối liền Sài Gòn với các tỉnh miền Tây. Đối với nội tỉnh, Mỹ Tho là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của địa bàn toàn tỉnh. Điều đó đã tạo cho Mỹ Tho có vị trí chiến lược quân sự hết sức quan trọng. Vì thế, cả thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đã chọn đặt ở tại Mỹ Tho các cơ quan đầu não của bọn chúng. Thành phố Mỹ Tho từ đó trở thành chiến trường trọng điểm, là nơi diễn ra các cuộc đấu tranh gay go, quyết liệt giữa ta và địch trong suốt thời kỳ tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc.
Có một điều chắc chắn là các phong trào yêu nước và cách mạng của nhân dân thành phố Mỹ Tho chống đế quốc xâm lược đã liên tục nổ ra và nối kết lại thành dòng chảy xuyên suốt chiều dài lịch sử đấu tranh của nhân dân thành phố. Cuộc khởi nghĩa của Thủ khoa Huân và các phong trào Cần Vương, Thiên địa hội, Hội kín, Minh Tân bùng nổ trong nửa sau thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đều bắt đầu từ Mỹ Tho; rồi sau đó, lan tỏa đến các địa phương khác trong tỉnh.
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, Mỹ Tho vẫn là trung tâm của phong trào yêu nước và cách mạng trong toàn tỉnh. Khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3/2/1930) thì chỉ sau đó 2 tháng (tháng 4/1930) tại thành phố, một số chi bộ Đảng cũng được thành lập, như chi bộ Hãng Xáng, chi bộ Cô le đờ Mỹ Tho (Collège de Mitho - Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu hiện nay), chi bộ Xóm Dầu (phường 3), chi bộ Hóc Đùn (xã Đạo Thạnh), v.v …
Từ năm 1930 đến năm 1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Mỹ Tho đã một lòng đi theo Đảng, ủng hộ và tích cực tham gia phong trào cách mạng, trải qua nhiều hy sinh, gian khổ, cùng với nhân cả nước liên tiếp giành những thắng lợi rực rỡ trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Với những thành tích vang dội, oanh liệt trong công cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, thành phố Mỹ Tho đã được Đảng và Nhà nước ta phong tặng danh hiệu cao quý: thành phố Anh hùng.
*
* *
Từ lâu, Mỹ Tho đã đi vào ca dao và thi ca với vẻ đẹp đằm thắm, nền nã và thơ mộng. Đó là lời của cô gái Mỹ Tho dịu dàng, chung thủy khi động viên tinh thần dân tộc, yêu nước đối với người yêu:
Đèn Sài Gòn, ngọn xanh, ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho, ngọn tỏ, ngọn lu.
Anh về học lấy chữ Nhu,
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.
(Ca dao)
Đó cũng là cô gái Mỹ Tho có sắc đẹp rạng ngời, nhưng anh dũng tuyệt vời trong công cuộc chống ngoại xâm:
Gái Mỹ Tho mày tằm, mắt phụng
Giặc đến nhà chẳng vụng huơ đao.
(Ca dao)
Về thi ca, lần đầu tiên, địa danh Mỹ Tho đã được xuất hiện trong bài thơ Mỹ Tho dạ vũ trong bộ Cấn Trai thi tập của Trịnh Hoài Đức (1765-1825), khi ông làm Ký lục dinh Trấn Định năm 1794:
Mỹ Tho dạ vũ
Trạc anh (4) xướng bãi nguyệt trầm tê (tây),
Tiêu tích Tho giang(5) vũ chính thê.
Hòe thị (6) trào đôi du (7) giáp quán,
Tông kiều (8) vân ủng thạch ngưu (9) nê.
Quang hàn liễu (10) phố ngư thuyền hỏa,
Thanh thấp mai thành (11) thú trại bề.
Vạn khoảnh minh triêu trình hợp dĩnh,
Tang lâm (12) vô sự đảo kiền tê.
Bản dịch thơ của Hoài Anh:
Mưa đêm ở Mỹ Tho
Khúc "giặt dải mũ" hát xong,
Nhìn ra trăng đã lặn vùng trời tây.
Chợ Hòe triều mới dâng đầy,
Quả du dồn đống phơi bày đường trơ.
Cầu Tông mây phủ mịt mờ,
Che hình trâu đá sau mưa lấm bùn.
Lửa thuyền chài bến liễu vờn,
Thành mai vọng gác trống dồn tong tong.
Sáng nom lúa trỗ đòng đòng,
Cần chi cầu đảo nhọc lòng rừng Tang.
Bản dịch thơ của Huỳnh Minh Đức:
Mưa đêm ở Mỹ Tho
Hát khúc "trạc anh", trăng gác tê,
Mưa đêm sông Mỹ kéo lê thê.
Nước giăng Hòe thị, du thành đống,
Mây phủ Tông kiều, trâu bị che.
Bến liễu, lửa chày soi bóng lạnh,
Thành mai, tiếng trống vọng tư bề.
Sáng mai lúa trổ tràn đồng ruộng,
Đâu phải Tang Lâm đợi mưa về.
Nhà thơ Học Lạc đã mô tả vẻ đẹp và sự sự sung thịnh của Mỹ Tho vào đầu thế kỷ XX trong bài thơ Tức cảnh Mỹ Tho; và lúc ấy, Mỹ Tho chỉ kém Sài Gòn mà thôi:
Trên Sài Gòn, dưới Mỹ Tho,
Đâu đâu phong cảnh cũng nhường cho.
Lớn ròng chung rạch chia đôi ngả,
Cũ mới phân nhau cũng một đò.
Phố cất vẽ vời xanh tựa lục,
Buồm dong lên xuống trắng như cò.
Đắc tình trạo tử (13) quên mưa nắng,
Dắn dỏi đua nhau tiếng hát hò.
Nhà thơ nổi tiếng Xuân Diệu, năm 1940, khi đến Mỹ Tho làm việc đã có những vần thơ tuyệt tác về dòng sông Tiền giao hòa với dòng Bảo Định (14), tạo nên một khung cảnh trời mây, cây trái, sông nước hữu tình:
Mỹ Tho bóng mát đường cây,
Nước sông Bảo Định dồn mây với thuyền.
Cầu Quay phố xá hai bên,
Ta không buôn bán, chỉ ghiền văn thơ.
Năm 1976, nhà thơ Nông Quốc Chấn đến thăm Mỹ Tho và đã cảm nhận tình đất, tình người ở đây. Đó là sự hồn hậu, nồng ấm, phóng khoáng, thủy chung, bất khuất và kiên cường:
Mời bạn ghé nhà tôi quê Mỹ Tho,
Ngã ba rẽ trái một đường to.
Dừa đang độ ngọt, xoài đang chín,
Đất của những người yêu tự do.
Mỹ Tho có nhiều khu vui chơi, du lịch nổi tiếng, như: chùa Vĩnh Tràng, Trại rắn Đồng Tâm, khu vui chơi tổng hợp và du lịch miệt vườn sông nước Cửu Long đặt tại cù lao Thới Sơn với các cồn, như cồn Long, cồn Lân, cồn Quy, cồn Phụng hợp thành vùng đất tứ linh vô cùng độc đáo. Thật là:
Mỹ Tho cảnh đẹp người xinh
Quyện lòng du khách gợi tình nước non.
Ở Mỹ Tho, vẻ đẹp từ thiên nhiên ban tặng gắn kết hài hòa với vẻ đẹp cổ kính của những công trình kiến trúc độc đáo, như chùa Vĩnh Tràng (xã Mỹ Phong), chùa Bửu Lâm (phường 3), chùa Thiên Phước (xã Mỹ Phong), chùa Ông (phường 8), đình Điều Hòa (phường 2), tòa nhà làm việc của Ủy ban nhân dân tỉnh (Công quán), tòa nhà Bảo tàng tỉnh, Trường Trung học phổ thông Nguyễn Đình Chiểu (Collège de Mitho), v.v… Vẻ đẹp của Mỹ Tho còn được tôn thêm bởi những công viên rợp bóng cây xanh mát, như công viên Lạc Hồng, công viên Tết Mậu Thân, công viên cầu Rạch Miễu, v.v… Đặc biệt, trong lòng nội ô Mỹ Tho còn hai giếng nước, nguyên là hào thành của thành Định Tường xưa, chất chứa nhiều giá trị về cảnh quan môi trường và sự sống.
Mỹ Tho còn là "đất học", người dân Mỹ Tho có truyền thống hiếu học, nhiều người đỗ đạt, thành tài, nhiều sĩ phu yêu nước đã phục vụ quên mình cho đất nước nói chung và cho Mỹ Tho nói riêng. Trong đó, nổi bật là Trường Collège de Mitho được thành lập năm 1879; đây là trường trung học theo giáo dục phương Tây được thành lập đầu tiên ở Việt Nam. Tuy trường do người Pháp thành lập; nhưng tuyệt đại đa số học sinh của trường với tinh thần dân tộc sâu đậm đã tích cực tham gia các phong trào yêu nước và cách mạng; trong đó có những trí thức nổi tiếng có những đóng góp quan trọng cho đất nước, xứng đáng với truyền thống cao quý của trường: Cách mạng - Dạy giỏi - Học giỏi. Ở đây, vẻ đẹp văn hóa của người trí thức nhập hòa với vẻ đẹp anh hùng cách mạng của người chiến sĩ cộng sản kiên cường.
Mỹ Tho còn được xem là cái nôi của nghệ thuật đờn ca tài tử, ca ra bộ và cải lương. Đó là Ban đờn ca tài tử Tư Triều (Nguyễn Tống Triều) được thành lập vào đầu thế kỷ XX, mà nổi bật nhất là Ban đã được sang nước Pháp trình diễn tại cuộc đấu xảo năm 1906 tại thành phố cảng Mạc xây (Marseille). Sau khi về nước, nghệ nhân Tư Triều sáng tạo ra một loại hình diễn xướng mới là ca ra bộ với nghĩa là diễn viên vừa ca vừa ra điệu bộ phù hợp với lời ca. Theo nhiều nhà nghiên cứu nghệ thuật, ca ra bộ là tiền thân của nghệ thuật cải lương. Từ đó, Ban đờn ca tài tử Tư Triều trở thành Ba ca ra bộ Tư Triều, được mời đi biểu diễn khắp nơi ở Nam Bộ, nhất là Sài Gòn và Mỹ Tho.
Về nghệ thuật cải lương, phải nói đến gánh hát thầy Năm Tú (Châu Văn Tú) được thành lập năm 1918. Đây là gánh cải lương chuyên nghiệp đầu tiên ở Việt Nam. Ngay tại chợ Mỹ Tho, ông Năm Tú cho xây dựng một rạp hát với đầy đủ phương tiện, trang thiết bị nhằm phục vụ cho những buổi biểu diễn chuyên nghiệp của gánh hát do mình làm chủ. Rạp hát này có tên là rạp hát Thầy Năm Tú và đây là rạp hát cải lương đầu tiên ở nước ta. Đồng thời, với tư duy nhạy bén của một người kinh doanh trong lĩnh vực nghệ thuật, ông Năm Tú còn sản xuất đĩa hát cải lương và đây là những đĩa hát cải lương đầu tiên ở Việt Nam. Việc làm này của ông Năm Tú, ngoài mục đích tăng doanh thu, còn nhằm phổ biến nghệ thuật cải lương ra cả nước. Ngoài ra, trong những năm 20 của thế kỷ XX, ở Mỹ Tho còn có nhiều gánh cải lương nổi tiếng khác nữa, như Nam Đồng Ban, Tái Đồng Ban, Đồng Bào Nam, Huỳnh Kỳ,…
Từ trong cái nôi của nghệ thuật đờn ca tài tử - ca ra bộ - cải lương, ở Mỹ Tho đã sản sinh ra những tài danh cải lương tiền bối, như cố đệ nhất tài hoa cải lương Năm Phỉ (Lê Thị Phỉ), cố nghệ sĩ nhân dân (NSND) Năm Châu (Nguyễn Thành Châu), cố NSND Tư Trang (Trần Hữu Trang), cố NSND Bảy Nam (Lê Thị Nam, em của cố nghệ sĩ Năm Phỉ), cố NSND Phùng Há (Trương Phụng Hảo),…
Mỹ Tho còn là quê hương của hai họa sĩ nổi tiếng Nguyễn Sáng và Mai Văn Hiến. Nguyễn Sáng được xếp vào thế hệ các hoạ sĩ tiền bối của Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và được coi là người đứng đầu trong bộ tứ "Sáng - Nghiêm - Liên - Phái" (15) của hội hoạ Việt Nam hiện đại. Ông là một trong những hoạ sĩ đã tham gia kháng chiến ngay từ những ngày đầu nước nhà giành độc lập (8/1945). Trong quá trình công tác, ông đã được tặng Huân chương Độc lập hạng Ba; Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam; Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam. Năm 1996, hoạ sĩ Nguyễn Sáng được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật đợt I cho các tác phẩm: Giặc đốt làng tôi, Kết nạp Đảng trong chiến hào Điện Biên Phủ, Bộ đội trú mưa, Thiếu nữ bên hoa sen, Thành đồng Tổ quốc. Mai Văn Hiến từng học Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương khoá 1943 - 1945 và tham gia cách mạng từ tháng 8/1945. Trong quá trình tham gia kháng chiến và hoạt động nghệ thuật, ông đã được tặng Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Lao động hạng Nhất, Huân chương Chiến thắng hạng Ba, Huân chương kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng Nhất, Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Ba, Huy chương Vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam, Huy chương Vì sự nghiệp Mỹ thuật Việt Nam, Huy hiệu 50 năm tuổi Đảng. Năm 2001, hoạ sĩ Mai Văn Hiến được tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật cho các tác phẩm: Trước giờ ra thao trường, Du kích Đông Bắc, Gặp nhau, Bướm dọc đường, Những lời dạy bảo; Anh bộ đội Cụ Hồ với nhân dân Tây Bắc.
*
* *
Từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, thống nhất đất nước (30/4/1975), Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Mỹ Tho ra sức khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước khôi phục, xây dựng và phát triển thành phố về mọi mặt. Từ đô thị loại 3 (1976), tiến lên đô thị loại 2 (2005) và hiện nay là đô thị loại 1, diện mạo thành phố Mỹ Tho ngày càng đổi mới. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được nâng lên. Các công trình công cộng (công sở, trường học, bệnh viện, thư viện, bảo tàng, nhà hát, công viên, sân vận động, nhà thi đấu thể thao, ngân hàng, siêu thị, khu vui chơi giải trí,…) và nhà ở của nhân dân được xây dựng khang trang, sạch đẹp. Hệ thống đường xá, điện nước, thông tin liên lạc được đầu tư xây dựng từ các xã ngoại thành đến các phường nội ô. Các mặt văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao hoạt động sôi nổi, lành mạnh, đáp ứng tốt nhu cầu của đời sống nhân dân thành phố. Khu công nghiệp Mỹ Tho, các cụm công nghiệp Trung An và Tân Mỹ Chánh đã được xây dựng và hoạt động ngày càng hiệu quả, góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu thành phố theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Với truyền thống vẻ vang của vùng đất văn hiến, giàu truyền thống cách mạng và anh hùng, phát huy những thành tựu và kinh nghiệm có được trong lịch sử, đặc biệt là sau 50 năm thành lập và phát triển, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân thành phố Mỹ Tho sẽ đoàn kết, nhất trí, chung sức, chung lòng, tiếp tục đẩy mạnh đổi mới, hội nhập và phát triển toàn diện trên các lĩnh vực, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng thành phố Mỹ Tho ngày càng giàu đẹp, văn minh và hiện đại, xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Tiền Giang.
Bài: Tiến sĩ Nguyễn Phúc Nghiệp
Ảnh minh họa: Duy Anh
-
(1) Phỏng đoán thành Mỹ Tho (năm 1792) tọa lạc giữa các con đường Đinh Bộ Lĩnh (phía Nam), Học Lạc (phía Bắc), Thái Sanh Hạnh (phía Đông), Nguyễn Huỳnh Đức (phía Tây).
(2) Phỏng đoán thành Mỹ Tho (1826) nằm lọt khung trong các con đường 30 tháng 4 (phía nam), Lê Đại Hành (phía bắc), Lê Lợi (phía đông), Nam Kỳ Khởi Nghĩa (phía tây).
(3) Khách sạn.
(4) Trạc anh: có nghĩa là Giặt dải mũ.
(5) Tho giang: Sông Mỹ Tho.
(6) Hòe thị: Chợ Hòe, ý chỉ chợ Mỹ Tho.
(7) Du: Dầu, mỡ (lấy từ thực vật hoặc động vật), như: "hoa sanh du" 花生油 dầu đậu phộng, "trư du" 豬油 mỡ heo. Ở đây chỉ một xóm nhà chuyên làm nghề ép dầu. Hiện nay vẫn còn địa danh Xóm Dầu ở khu vực chùa Bửu Lâm, phường 3, TP Mỹ Tho.
(8) Tông kiều: Năm 1792, chính quyền chúa Nguyễn cho xây cầu Quỳ Tông bắc ngang qua kinh Bảo Định. Năm 1801, cầu bị gỡ bỏ do nước xoáy.
(9) Thạch ngưu: Trâu đá.
(10) Liễu: ở đây chỉ cây thủy liễu, tức cây bần.
(11) Mai thành: ý chỉ thành Mỹ Tho. Thành này được xây dựng năm 1792. Sách "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức viết: "(thành Mỹ Tho) … có góc cạnh lồi ra hủng vô như hình hoa mai …"
(12) Tang Lâm: Đời Thành Thang nhà Thương (Trung Quốc) bị bảy năm hạn hán, vua quan phải đến rừng Tang làm lễ cầu mưa.
(13) Trạo tử: người đưa đò.
(14) Kinh Bảo Định được đào năm 1705, được nạo vét và mở rộng năm 1819, nối rạch Vũng Gù ở phía bắc (TP Tân An, tỉnh Long An) và rạch Mỹ Tho ở phía nam (TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang). Đây là con kinh được đào đầu tiên ở Nam Bộ.
(15) "Sáng - Nghiêm - Liên - Phái" là 4 họa sĩ nổi tiếng trong nền mỹ thuật Việt Nam, bao gồm: Nguyễn Sáng - Nguyễn Tư Nghiêm - Dương Bích Liên - Bùi Xuân Phái".