Nhu.giang, SV Y khoa năm thứ I, đại học y khoa PNT, nhân đọc dohongngoc.com nhận xét 2 bài thơ dịch Hoàng hạc lâu (Thôi Hiệu) của Tản Đà và Vũ Hoàng Chương có “nỗi buồn” khác nhau. Thú vị, tôi hỏi em thử phân tích chỗ khác nhau đó, và đây là câu trả lời của em:
“Em chỉ thấy được thế này thôi… Điểm khác nhau nằm ở chủ thể trữ tình và khách thể thẩm mỹ ở 2 bản dịch.
+Chủ thể trữ tình : “Xưa hạc vàng bay vút bóng người, “Hạc vàng ai cưỡi đi đâu, Đây Lầu Hoàng Hạc chút thơm rơi.” - Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ” “Chút thơm rơi”-hình bóng của một ai đó vẫn còn lưu lại nơi “đây”, chứ không hẳn là “trơ” như của Tản Đà. “Gần xa chiều xuống đâu quê quán? “Quê hương khuất bóng hoàng hôn Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi” - Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai” Không có “khói” nhưng “sóng” của VHC vẫn mang đầy tâm trạng, và cơn sóng đó (có thể là sóng lòng và cũng có thể là nước mắt của nhà thơ) chợt dâng trào trong câu thơ cuối, nỗi nhớ ở đây có lẽ không chỉ là nỗi nhớ quê hương, mà còn là nỗi nhớ về “hạc vàng bay vút bóng người” trong câu thơ đầu.
+Khách thể thẩm mỹ: “Vàng tung cánh hạc đi đi mất “Hạc vàng đi mất từ xưa Trắng một màu mây vạn vạn đời - Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay Cây bến Hán Dương còn nắng chiếu Hán Dương sông tạnh cây bày Cỏ bờ Anh Vũ chẳng ai chơi” Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non” Khung cảnh trong bản dịch của VHC mang một màu sắc lạ kì và cô đơn trống trải đến lạ kì (”chẳng ai chơi”), đâu được “sông tạnh cây bày” hay khoác một chiếc áo màu xanh mơn mởn mà đơn giản chỉ là “còn nắng chiếu” mà thôi. Không gian mà nhà thơ tạo ra “động” hơn là “tĩnh”…”
nhu.giang
Ghi chú 1: “hương quan hà xứ thị”
…“ Và vậy đó, những bài thơ gần đây nhất của Lữ Quỳnh mang một nỗi buồn hoàng hôn, mà tôi gọi là nỗi buồn “nhật mộ”, lúc mà người ta thường phải sắt se tự hỏi như Thôi Hiệu: “hương quan hà xứ thị?” (Hoàng hạc lâu). Cái hương quan hà xứ này hình như ta chỉ chạm mặt giữa hoàng hôn, những hoàng hôn tím biếc, những chập chùng khói sương, bến bờ vực thẳm. Đinh Cường có lần nói với tôi gần hai mươi năm trước: Một lần kia đứng nhìn thác Niagara, tự nhiên moi muốn nhày xuống như “con diều bay cho vực thẳm buồn theo…”(TCS). Cái vực thẳm buồn theo đó cũng là cái vòm cao “Trắng một màu mây vạn vạn đời” - bạch vân thiên tải không du du- nọ, khi người ta bỗng quay quắt tự hỏi mình: tôi là ai mà còn trần gian thế? Cái “hương quan hà xứ” mà Thôi Hiệu nói đến chắc chắn không phải là cây đa bến nước con đò mà là một thứ quê hương nào khác, cái mà Trịnh Công Sơn bảo: “chẳng biết nơi nao là chốn quê nhà…” kìa!…
dohongngoc (trích Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi!)
Ghi chú 2:
Bài thơ dịch Hoàng Hạc Lâu của Vũ Hoàng Chương do nhà thơ Trụ Vũ đọc cho tôi chép có mấy chữ khác với bản thủ bút của Vũ Hoàng Chương tặng nhà phê bình thơ Đặng Tiến năm 1973 (mà Đặng Tiến có nhã ý gởi tặng tôi khi đọc bài “Đừng giục cơn sầu nữa sóng ơi” của tôi viết về tập thơ Lữ Quỳnh trên Damau).
Đó là ở câu thứ 3: Vàng tung cánh hạc đi đi mất (thủ bút) Vàng tung cánh hạc bay bay mãi (Trụ Vũ đọc)
Và ở câu thứ 7: Gần xa chiều xuống đâu quê quán (thủ bút) Gần xa chiều xuống nào quê quán (Trụ Vũ đọc) Sự khác biệt này có cho ta thấy chút ý nghĩa gì chăng giữa người viết và người đọc thơ?
Đỗ Hồng Ngọc