1. Tìm hiểu chung về bài thơ Lưu biệt khi xuất dương - Phan Bội Châu
Tác giả Phan Bội Châu (1867 - 1940)
- Phan Bội Châu (1867-1940), tên thuở nhỏ là Phan Văn San, biệt hiệu chính Sào Nam
- Quê quán: Làng Đan Nhiễm nay thuộc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An.
- Phan Bội Châu là lãnh tụ các phong trào yêu nước đầu thế kỉ XX.
- Quá trình hoạt động kháng chiến:
+ Đỗ "Giải Nguyên độc bảng" năm 1900, học giỏi nhưng không ai ra làm quan mà nung nấu cho mình con đường cứu nước theo ý tưởng mới.
+ Là lãnh tụ các phong trào: Duy Tân, Đông Du, Việt Nam Quang Phục Hội.
+ Từ 1905 - 1925: bôn ba hoạt động ở nước ngoài mưu sự phục quốc nhưng việc không thành.
+ Năm 1925: ông bị bắt ở Thượng Hải rồi bị giam lỏng ở Huế cho đến cuối đời.
- Phong cách nghệ thuật:
+ Thơ văn Phan Bội Châu có hình thức cổ điển nhưng vẫn mới mẻ bởi nội dung tuyên truyền và cổ động cách mạng; làm rung động bao trái tim yêu nước bằng những vần thơ sôi sục, nhiệt huyết.
+ Trong vòng mấy chục năm đầu thế kỉ XX, Phan Bội Châu được coi là cây bút xuất sắc của văn thơ cách mạng
- Các tác phẩm chính: Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Ngục trung thư, Trùng Quang tâm sử, Phan Sào Nam văn tập, Phan Bội Châu niên biểu,....
Tác phẩm "Lưu biệt khi xuất dương"
Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905 trước lúc giác giả sang Nhật bản tìm đường cứu nước mới, ông làm bài thơ này để giã từ bạn bè, đồng chí. Đây là một trong những bài thơ được viết để thể hiện tinh thần và quyết tâm của ông đối với việc cứu nước và giành lại độc lập tự cho cho Việt Nam.
Thể thơ
Bài thơ được viết theo thể Thất ngôn bát cú Đường luật, một dạng thể thơ phổ biến trong văn học cổ điển Trung Quốc và cũng thường được sử dụng trong văn thơ Việt Nam truyền thống. Thể thơ thất ngôn bát cú bao gồm bảy câu với mỗi câu có tám chữ, tổng cộng 56 chữ. Đây là một thể thơ linh hoạt, cho phép tác giả diễn đạt ý nghĩa một cách súc tích và tinh tế.
Hình ảnh trong bài thơ của Phan Bội Châu được xây dựng với tính biểu tượng cao, thể hiện sự sâu sắc trong tâm trạng và tư tưởng của tác giả. Hình ảnh này không chỉ đơn thuần là mô tả vật thể mà còn mang theo một tầm quan trọng tượng trưng và tinh thần sâu xa. Bằng cách sử dụng hình ảnh biểu tượng, Phan Bội Châu muốn truyền đạt một thông điệp hoặc tạo ra một bầu không khí tinh thần đặc biệt trong bài thơ.
Thể thơ thất ngôn bát cú cùng với hình ảnh mang tính biểu tượng cao đã làm cho bài thơ "Lưu Biệt Khi Xuất Dương" của Phan Bội Châu trở nên đặc biệt và sâu sắc. Nó giúp tạo ra một tác phẩm văn học đầy cảm xúc và ý nghĩa, thể hiện tinh thần đoàn kết và quyết tâm của tác giả đối với cuộc đấu tranh cách mạng và sự nghiệp cứu nước của Việt Nam.
Bố cục
- Phần 1. Hai câu đề: Quan niệm của nhà thơ về chí làm trai và tầm vóc của đấng nam nhi trong vũ trụ.
- Phần 2. Hai câu thực: Ý thức trách nhiệm của nhà thơ trước cuộc đời.
- Phần 3. Hai câu luận: Thái độ trước tình cảnh của đất nước.
- Phần 4. Hai câu kết: Tư thế cũng như khát vọng của nhà thơ trước khi lên đường.
Giá trị tác phẩm
Về giá trị nội dung
Bài thơ "Lưu Biệt Khi Xuất Dương" đã khắc họa một bức tranh về vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của những nhà chí sĩ cách mạng trong những năm đầu thế kỷ XX. Trong bài thơ, chúng ta được tận mắt thấy tư tưởng mới mẻ và táo bạo của những người cách mạng, những người đã tìm ra con đường khác biệt để cứu nước. Bức tranh này còn thể hiện bầu nhiệt huyết sôi trào và khát vọng cháy bỏng trong buổi ra đi tìm đường cứu nước. Những con người này đặt cuộc sống và sự hy sinh của họ vào tầm ngắm, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn và gian khổ để thực hiện ước mơ cao cả về độc lập và tự do cho đất nước.
Về giá trị nghệ thuật
Bài thơ "Lưu Biệt Khi Xuất Dương" sử dụng một giọng thơ tâm huyết và đầy cảm xúc để truyền tải tinh thần và quyết tâm của những người cách mạng. Hình ảnh trong bài thơ được xây dựng một cách giàu sức gợi, cho phép độc giả tận hưởng sự lãng mạn và hào hùng của tình yêu quê hương và tình yêu đối với nguyên tắc và ý tưởng cách mạng. Sự tâm huyết của tác giả trong từng câu văn, từng chi tiết hình ảnh thể hiện rõ trong bài thơ, tạo nên một tác phẩm nghệ thuật đầy sức sống và ý nghĩa. Tóm lại, "Lưu Biệt Khi Xuất Dương" không chỉ là một bài thơ nghệ thuật tinh tế mà còn là một tác phẩm thể hiện tinh thần cách mạng mạnh mẽ và quyết tâm của những người yêu nước trong giai đoạn khó khăn của lịch sử Việt Nam.
Dàn ý chung phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Phan Bội Châu)
A. Mở bài
- Phan Bội Châu (1867-1940) quê ở Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Năm 1900 đỗ Giải nguyên. Ông sáng lập ra Hội Duy Tân (1904). Năm 1905, bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du, tổ chức Việt Nam Quang phục hội. Năm 1925, ông bị thực dân Pháp bắt cóc tại Thượng Hải, đưa về Hà Nội với cái án tử hình. Trước sức mạnh đấu tranh của nhân dân ta, chúng đưa ông về giam lỏng ở Huế.
- Là chiến sĩ yêu nước vĩ đại, là nhà văn, nhà thơ lớn của đất nước ta trong thế kỉ 20 - Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn yêu nước và tuyên truyền cổ động cách mạng sôi sục đầy nhiệt huyết.
- Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương được Phan Bội Châu viết năm 1905, trong lúc chia tay đồng chí, bạn bè, trước lúc bí mật sang Nhật, dấy lên phong trào Đông Du.
- Bài thơ khẳng định chí làm trai và quyết tâm xuất dương, là nên sự nghiệp lớn cứu nước cứu dân.
B. Thân bài: Phân tích
a. Hai câu đề
Phiên âm:
"Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di"
Dịch thơ:
"Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời."
Bài thơ mở đầu bằng hai câu đề, nơi tác giả thảo luận về quan niệm truyền thống về chí làm trai và tầm vóc của đấng nam nhi trong xã hội phong kiến. Tác giả đặt nêu rõ quan niệm truyền thống rằng nam nhi phải lập nghiệp, nổi danh, và đứng trên thế giới. Tuy nhiên, tác giả đã thay đổi quan niệm này bằng cách đặt câu hỏi "Há để càn khôn tự chuyển dời," ngụ ý rằng con người có khả năng tự mình thay đổi số phận, thể hiện tư duy đột phá.
b. Hai câu thực
Phiên âm:
"Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"
Dịch thơ:
"Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở, há không ai?"
Trong phần này, tác giả thể hiện ý thức trách nhiệm cá nhân và công dân đối với việc đóng góp vào sự nghiệp của quê hương. Tác giả khuyến khích mọi người sống có ích và lưu danh thiên cổ. Hai câu thơ này cụ thể hóa lẽ sống của đấng nam nhi: phải tự giác chủ động và sống có ích cho xã hội.
c. Hai câu luận
Phiên âm:
"Giang sơn tử hĩ sinh đồ nhuế
Hiền thánh liêu nhiên tụng diệc si."
Dịch thơ:
"Non sông đã chết, sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài"
Phần này đặt quan niệm về chí làm trai vào bối cảnh hiện tại của đất nước. Tác giả sử dụng hình ảnh của mất nước, thân phận nô lệ, và sự phản kháng ngầm để thể hiện tình cảnh khó khăn của quê hương. Tác giả cũng chỉ ra sự mất đi của những giá trị truyền thống và tín điều đạo đức, kêu gọi sự hành động thiết thực và yêu nước.
d. Hai câu kết
Phiên âm:
"Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi"
Dịch thơ:
"Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi."
Phần kết của bài thơ đưa ra hình ảnh mạnh mẽ và lãng mạn như biển Đông, cánh gió, và muôn trùng sóng bạc để phản ánh tư thế và khát vọng của những người chí sĩ yêu nước. Câu cuối cùng tạo nên hình ảnh hào hùng, lãng mạn, và khơi gợi nhiệt huyết của một thế hệ trước đây và những người sẵn sàng ra đi để thực hiện lý tưởng cách mạng.
e. Nghệ thuật
- Âm hưởng hào hùng
- Giọng thơ tâm huyết, sôi sục
C. Kết bài
- Vẫn là thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, bằng chữ Hán. Giọng thơ trang nghiêm, đĩnh đạc hào hùng, mạnh mẽ, lôi cuốn.
- Thể hiện một chí lớn phi thường: không cam tâm làm nô lệ, quyết đi tìm đường cứu nước. Không phải là khẩu khí mà sự thật lịch sử đã xác nhận Phan Bội Châu đã sống và hành động như thơ ông đã viết ra.
- Lưu biệt khi xuất dương mang âm điệu anh hùng ca, chứa chan tình yêu nước và quyết tâm lên đường cứu nước.
Viết đoạn văn khoảng 100 từ phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương ngắn gọn
1. Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
“Xuất dương khi lưu biệt” là một bài thơ đặc sắc của Phan Bội Châu. Tác phẩm có sức lôi cuốn và lay động mạnh mẽ. Một trong những yếu tố làm nên điều đó chính là vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình được khắc họa rõ nét qua bài thơ.
Vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng của nhân vật trữ tình trước hết được bộc lộ qua những quan niệm mới mẻ về chí làm trai:
“Làm trai phải lạ ở trên đời
Há để càn khôn tự chuyển dời”
Nhân vật trữ tình có quan niệm mới mẻ và táo bạo về chí hướng của mình. Sinh ra làm đàn ông thì phải “mong có điều lạ”, tức là phải làm được những điều phi thường, mạnh mẽ. Mỗi người phải tự quyết định tương lai của mình, phải trở thành người chủ động trước thời thế chứ không phụ thuộc vào hoàn cảnh. Đó chính là ý chí hào hùng của con người trong mọi thời đại.
Không chỉ vậy, vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn còn được thể hiện qua tầm vóc của con người trong vũ trụ và sự tự ý thức trách nhiệm về vị trí của mình:
“Trong khoảng trăm năm cần có tớ
Sau này muôn thuở há không ai?”
Tác giả trăn trở về sứ mệnh của bản thân, phải để lại được tên tuổi, làm được những điều mà giữa trăm năm này nhất định “phải có ta chứ”. Sự tự tin đã làm nên vẻ đẹp lãng mạn và sự ý thức về tầm vóc lớn lao đã tạo nên vẻ đẹp hào hùng. Hai vẻ đẹp này không tách rời mà ngược lại hòa quyện với nhau tạo nên chất sử thi lãng mạn nổi bật. Chính vì đã sớm nhận thức được trách nhiệm lớn lao của mình, nhân vật trữ tình đã dấy lên những khát vọng mạnh mẽ, táo bạo về một cuộc ra đi hoành tráng:
“Muốn vượt bể Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi”
“Mong đuổi theo ngọn gió dài đi qua biển Đông” trở thành một ước vọng vừa bay bổng, vừa kỳ vĩ. Tuy nhiên, ở bản dịch thơ, “tiễn ra khơi” chỉ khắc họa một cuộc đưa tiễn bình thường, chưa làm nổi bật được tư thế, tầm vóc của con người trong vũ trụ như ở nguyên tác. “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” - “Ngàn đợt sóng bạc cùng bay lên” như một sự thăng hoa vừa lãng mạn vừa hào hùng trong cảm xúc. Bài thơ kết thúc với một hình ảnh tuyệt đẹp tương xứng với những khát vọng lớn lao và tư thế hào hùng của người chí sĩ trong buổi lên đường. Con người như hòa quyện vào thiên nhiên, trở thành trung tâm của bức tranh. Khí thế của con người lan tỏa ra muôn trùng con sóng bạc và chính những con sóng cũng cùng hòa chung một nhịp đập với trái tim sôi sục, cháy bỏng của con người.
Qua quan niệm, tư tưởng và tầm vóc của con người, bài thơ đã xây dựng thành công vẻ đẹp hào hùng và lãng mạn của nhân vật trữ tình. Những khát vọng mạnh mẽ đã trở thành nhựa sống rào rạt chảy trong suốt bài thơ. Chính điều đó đã tạo nên sức lôi cuốn mạnh mẽ. Và có lẽ, những điều lãng mạn và hào hùng đó được nảy mầm và nở hoa từ hạt giống của tình yêu nước thiết tha, sâu nặng của tác giả.
Để làm nên vẻ đẹp đó, Phan Bội Châu đã sử dụng những nét nghệ thuật độc đáo. Giọng thơ đầy nhiệt thành, tâm huyết và có lúc thiết tha, rạo rực. Hình ảnh thơ vừa lãng mạn, vừa hùng vĩ. Những hình ảnh lớn lao liên tục xuất hiện từ đầu đến cuối bài thơ như “càn khôn”, “trăm năm”, “non sông”, “bể Đông”, “muôn trùng sóng bạc”,…đã chắp thêm đôi cánh cho những ước vọng lãng mạn, mạnh mẽ, táo bạo.
Có thể nói, Phan Bội Châu đã xây dựng thành công hình tượng một người chí sĩ mang vẻ đẹp lãng mạn và hào hùng. Đặt trong hoàn cảnh thực tế, cuộc ra đi này vốn dĩ là một cuộc ra đi âm thầm và lặng lẽ. Nhưng tư thế và tầm vóc mà nhà thơ tái hiện lại qua bài thơ đã thể hiện phần nào sự tự tin, nhiệt huyết sôi sục trong lòng người cách mạng yêu nước. Điều đó càng góp phần khẳng định vẻ đẹp vừa lãng mạn lại không kém phần hào hùng của nhân vật trữ tình. Bài thơ trở nên hấp dẫn, lôi cuốn có lẽ là bởi vậy.
2. Hãy viết đoạn văn nghị luận ngắn trình bày ý kiến của mình về bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương"
Phan Bội Châu là một nhà nho tiên tiến, có những tư tưởng đổi mới mạnh mẽ, táo bạo. Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương dân khao khát tìm một con đường cứu nước mới khả dĩ có thể đem lại độc lập, tự do cho dân tộc.
Phan Bội Châu xuất thân là một nhà Nho, đã từng thấm nhuần nền học vấn Nho giáo từ khi còn nhỏ. Về sau này, đọc tân thư, ông tiếp thu học thuyết dân chủ tư sản chủ yếu về mặt tư tưởng chính trị, xã hội, còn về quan điểm đạo lí, trước sau ông vẫn chưa vượt ra khỏi Nho giáo. Phan Bội Châu từng nói: “Đọc sách Thánh hiền Á Đông mới được chữ trung quân. Nhưng về sau... đọc nhiều sách ngoài, biết chữ ái quốc còn nặng hơn chữ trung quân”. Như vậy, Phan Bội Châu là một nhà nho tiên tiến, có những tư tưởng đổi mới mạnh mẽ, táo bạo. Tất cả đều xuất phát từ tấm lòng yêu nước, thương dân khao khát tìm một con đường cứu nước mới khả dĩ có thể đem lại độc lập, tự do cho dân tộc. Ông phê phán những cái cổ hủ, lạc hậu, thối nát của lối học xưa, cũng như tính chất nô lệ, xấu xa của lối Tây học, nhưng không kết án cả nền Hán học, hay Tây học đó. Trong Phan Bội Châu niên biểu, ông đã viết: “Ngày xưa đi học chỉ chúi mũi vào lối văn khoa cử, cái đó quyết không phải là lỗi của Hán học. Ngày nay đi học chúi mũi vào lối văn nô lệ, xấu xa, ca; cũng quyết không phải là lỗi Tây học. Hoàn cảnh tối tăm chôn vùi biết bao thanh niên anh tuấn: thiệt là đáng buồn!”
3. Hãy viết đoạn văn nghị luận ngắn trình bày ý kiến của mình về câu thơ “Hiền thánh còn đâu học cũng hoài” của Phan Bội Châu trong bài Lưu biệt khi xuất dương.
"Hiền thánh còn đâu, học cũng hoài"
Phan Bội Châu đã thẳng thắn bày tỏ ý kiến trước một thực tế chua xót là ảnh hưởng của nền giáo dục Nho giáo đối với tình cảnh nước nhà lúc bấy giờ. Sách vở thánh hiền chẳng giúp ích được gì trong buổi nước mất nhà tan. Cho nên nếu cứ khư khư theo đuổi thì chỉ hoài công vô ích mà thôi. Tất nhiên, Phan Bội Châu chưa hoàn toàn phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo, nhưng đưa ra một nhận định như thế thì quả là táo bạo đối với một người từng là đệ tử của chốn cửa Khổng sân Trình. Dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết bắt nguồn từ lòng yêu nước thiết tha và khát vọng cháy bỏng muốn tìm ra con đường đi mới để đưa nước nhà thoát khỏi cảnh nô lệ lầm than. Phan Bội Châu cho rằng nhiệm vụ thiết thực trước mắt là cứu nước cứu dân, là Duy tân, tức là học hỏi những tư tưởng cách mạng mới mẻ và tiến bộ.
Danh sách đề thi phân tích bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của tác giả Phan Bội Châu
Đề 1: Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
Đề 2: Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để làm sáng tỏ nhận định: Đầu thế kỉ XX này, có những vần thơ, những bài văn đã làm cho người nghe căm hờn, suy nghĩ và phấn khởi..PBC là một người dẫn đầu và thành công rõ rệt hơn ai hết về lối thơ ca yêu nước đó.
Đề 3: Phân tích chí làm trai trong bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
Đề 1: Bình giảng bài thơ Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu
Mở bài:
“Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại (Tôn Quang Phiệt), Phan Bội Châu là linh hồn của các phong trào vận động giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm dầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông bất tử với các tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông Du, Việt Nam Quang Phục hội... Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số bài văn tế và vài ba vở tuồng chứa chan tinh thần yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).
Năm 1900, Phan Bội Châu đậu giải nguyên khoa thi Hương trường Nghệ. Năm 1904 ông sáng lập ra Hội Duy Tân, một tố chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông Du. Trước lúc lên đường Đông du, qua Trung Hoa, Nhật Bản đế cầu nguyện viện với bao hoài bão tung hoành, ông đã để lại đồng chí bài thơ Lưu biệt khi xuất dương (Xuất dương lưu biệt). được viết bằng chữ Hán, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, là khúc tráng ca biểu lộ tư thế quyết tâm hăm hở, và những ý nghĩa cao cả mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong buổi đầu xuất dương cứu nước.
Thân bài:
Hai câu đề là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:
"Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càng khôn tự chuyển di."
Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống mong muốn làm nên điều lạ (yếu hi kì). Suy rộng ra, là không thể sống tẩm thường. Không thể sống một cách thụ động để cho trời đất (càn khôn) tự chuyển dời một cách vô vị, nhạt nhẽo. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế rất đẹp về chí nam nhi, tự tin ở đức độ và tài năng của mình, muốn làm nên sự nghiệp to lớn, xoa chuyển trời đất, như ông đã nói rõ trong một bài thơ khác:
"Dang tay ôm chặt bổ kình tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù."
Gắn câu thơ với sự nghiệp cách mạng vô cùng sôi nổi của Phan Bội Châu ta mới cảm nhận được cái khí anh hùng cùa nhà thi sĩ vĩ đại. Đấng nam nhi muốu làm nên điều lạ ở trên đời, từng nung nấu và tâm niệm theo một vần thơ cố:
"Mỗi phạn bất vong guy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương."
(Tùy viẽn thi thoại - Viên Mai)
(Bữa bữa những mong ghi sử sách,
Lập thân xoàng nhất ây văn chương).
Đấng nam nhi muôn làm nên điều lạ ở trên đời ấy có một bầu máu nóng sùi sục: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi ít, lúc còn bé đọc sách của cha tôi, mỗi khi đến những chỗ nơi người xưa chịu chết để thành đạo nhân, nước mắt lại đầm đìa nhỏ xuống ướt dẫm cả giấy...” (Ngục trung thư).
Phần thực, ý thơ mở rộng, tác giả tự khẳng định vai trò của mình trong xà hội và trong lịch sử:
"Ư bách nièn trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cách vô thủy."
Ngã là ta, tu hữu ngã nghĩa là phải có ta trong cuộc đời một trăm năm (bách niên trung). Câu thơ khẳng định biểu lộ niềm tự hào lớn lao của kẻ sĩ trong cảnh nước mất nhà tan. Thiên tải hậu nghìn năm sau, là lịch sử của đất nước và dân tộc há lại không có ai (để lại tên tuổi) ư? Hai câu 3, 4 đối nhau, lấy cái phủ định đế làm nổi bật điều khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thế hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử: “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”. (Trần Quốc Tuấn).
"Nhân vinh tự cổ thủy vô tử
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh."
(Văn Thiên Tường)
Lấy cái hữu hạn - bách niên - của một đời người đối với cái vô hạn - thiên tài - của lịch sử dân tộc, Phan Bội Châu đã tạo nên một giọng thơ đĩnh đạc. hào hùng, biểu lộ một quyết tâm và khát vọng trong buổi lên đường. Vì thế. trên bước đường cách mạng giải phóng dân tộc, trải qua muôn vàn thử thách và hiểm nguy, ông vẫn bất khuất, lạc quan:
"Thân ấy hãy còn, còn sự nghiệp,
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu!"
Phần luận tác giả nói về sống và chết, nói về công danh.
Đây là một ý tưởng rất mới khi ta soi vào lịch sử dân tộc những năm đen tối dưới ách thống trị của thực dân Pháp. Khi non sông đã chết, đã bị ngoại bang xâm chiếm, giày xé thì thân phận dân ta chỉ là kiếp ngựa trâu, có sống cũng nhơ nhuốc nhục nhã. Trong hoàn cảnh ấy có nấu sử nghiền kinh, có chúi đầu vào con đường khoa cử cũng vô nghĩa. Sách vở của thánh hiền liệu còn có ích gì trong sự nghiệp cứu nước nhà.
"Non sông đã chết, sống thêm nhục,
Hiền thánh còn đâu học của hoài."
Phan Bội Châu đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước hết. Ông nói bằng tất cả nhiệt huyết và chân thành. Ông nhắc nhở mọi người phải đoạn tuyệt với lôi học cử tử, không thể đắm chìm trong vòng hư danh, mà phải hăm hở đi tìm lí tưởng cao cả. Trong bài Bài ca chúc tết thanh niên viết vào dịp Tết năm 1927. Cụ thiết tha kêu gọi thanh niên:
"Ai hữu chí từ nay xin gắng gỏi
Xếp bút nghiên mà tu dưỡng lấy tinh thần
Đừng ham chơi, dừng ham mặc, ham ăn
Dựng gan óc lên đánh tan sắt lửa
Xối máu nóng rủa vết nhơ nô lệ..."
Sống như thế là sống đẹp. Sống như thế mới mong làm nên điều lạ ở trên đời, mới tự khẳng định được: Trong khoảng trăm năm cần có tớ.
Phần kết là sự kết tinh của một hồn thơ bav bổng đượm sắc lãng mạn:
"Nguyệt trục trường phong Đông hải khử,
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi."
Thơ văn Phan Bội Châu là thơ văn tuyên truyền, cổ vũ lòng yêu nước, khơi gợi lòng căm thù giặc. Thơ văn Phan Bội Châu sở dĩ trở thành những bác ái quốc vì thâm đượm cảm xúc, sôi sục nhiệt huyết, có nhiều hình tượng đẹp nói về cảm hứng yêu nước và lí tưởng anh hùng. Hai câu kết là một ví dụ hùng hồn: Trường phong - Ngọn gió dài. Thiên trùng bạch lãng - ngàn lớp sóng bạc, là hai hình tượng kì vĩ. Chí khí của người chiến sĩ cách mạng được diễn tả qua các vị ngữ nguyện trục (mong đuổi theo) và nhất tề phi (cùng bay lên). Cái không gian mênh mông mà nhà chí sĩ mong vượt qua là Đông hải. Hai thanh trắc cho âm điệu cất lên, bay lên. Âm hưởng bổng trầm ấy cũng góp phần thể hiện quyết tâm mạnh mẽ lên đường cứu nước của Phan Bội Châu. Ớ đây nội lực, bản lĩnh chiến đấu và khẩu khí của người chiến sĩ có sự hòa hợp, gắn bó và thông nhất. Sự nghiệp cách mạng của Phan Bội Châu đã cho hậu thế biết rõ và cảm phục điều Tiên sinh đã nói ở hai câu kết.
Kết bài:
Lưu biệt khi xuất dương là bài thơ tuyệt tác đầy tầm huyết. Bài thơ là tiếng nói tự hào của nhà chí sĩ giàu lòng yêu nước, thương dân, dám xả thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Một giọng thơ đĩnh đạc hào hùng. Tráng lệ nhất là ở hai câu kết. Bài thơ thể hiện một cách sâu sắc nhất cảm hứng yêu nước và lí tường anh hùng của nhà chí sĩ vĩ đại Phan Bội Châu.
Đề 2: Phân tích bài thơ Lưu biệt khi xuất dương để làm sáng tỏ nhận định: Đầu thế kỉ XX này, có những vần thơ, những bài văn đã làm cho người nghe căm hờn, suy nghĩ và phấn khởi..PBC là một người dẫn đầu và thành công rõ rệt hơn ai hết về lối thơ ca yêu nước đó.
Mở bài:
Cuối thế ki XIX, phong trào cần vương chống Pháp thất bại. Những phong trào yêu nước mới xuất hiện. Phan Bội Châu là một trong những nhà nho Việt Nam đầu tiên nuôi ý tưởng đi tìm một con đường cứu nước mới. Cũng như Bác Hồ sau này, Phan Bội Châu không có ý định xây dựng cho mình sự nghiệp văn chương mà dùng văn chương làm phương tiện phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Tuy nhiên, nhiệt huyết cứu nước đã đốt cháy ngọn lửa văn chương tạo nên thơ văn tuyên truyền vận động cách mạng với cảm xúc cuồn cuộn, tư tưởng tiến bộ và giá trị nghệ thuật cao. Lưu biệt khi xuất dương của Phan Bội Châu là một trong những bài thơ tiêu biểu cho loại thơ này.
Thân bài
Thơ văn tuyên truyền vận động cách mạng xuất hiện ở nước ta đầu thế kỉ XX và phát triển thành dòng văn học lớn với những tên tuổi như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Huỳnh Thúc Kháng, Ngô Đức Kế... dòng thơ văn này ra đời nhằm mục đích truyền bá tư tưởng yêu nước cách mạng trong nhân dân, kêu gọi cải cách xã hội để tự cường, giành tự do độc lập cho Tổ quốc. Âm hưởng chang của dòng thơ văn này là hùng hồn, tha thiết nhiều khi bi thiết đầy kích động. Lối viết văn chữ Hán được đổi mới, kinh nghiệm nghệ thuật của thơ ca truyền miệng được phát huy mạnh mẽ, nhiều thể loại có ưu thế trong việc chuyên chở nội dung cách mạng được thể nghiệm... Dù còn bị ràng buộc bởi ý thức và thi pháp văn học trung đại nhưng thơ văn tuyên truyền vận động cách mạng đầu thế ki XX đã có những đóng góp lớn lao cho nền văn học vân hóa và lịch sử nước nhà.
Coi văn chương là vũ khí, Phan Bội Châu có nhiều cách tân đối với loại hình sáng tác mang tính chất tuyên truyền, cổ động và đã đạt được những thành công lớn. Thơ văn Phan Bội Cháu luôn trào sôi nhiệt huyết yêu nước và cách mạng đã làm rung động không biết bao nhiêu con tim yêu nước trong đó có không ít người quyết định dấn thân từ việc đọc những vần thơ của ông.
Năm 1905, sau khi cùng Tiểu La Nguyễn Thành thành lập Hội Duy tân. Theo chủ trương của tổ chức, Phan Bội Châu chia tay bạn bè sang Trung Quốc và Nhật Bản, tranh thủ sự giúp đỡ của những nước này đối với phong trào cách mạng Việt Nam. Trước khi lên đường, vào lúc chia tay (trong bữa cơm ngày tết do Phan Bội Châu tổ chức tại nhà mình để chia tay các đồng chí) Phan Bội Châu đã sáng tác Xuất dương lưu biệt (Để lại lúc từ biệt ra nước ngoài). Bài thơ được viết bằng chữ Hán và nhanh chóng được phổ biến rộng rãi và được dịch ra tiếng Việt. Bản dịch của Tôn Quang Phiệt là bản dịch khá thành công tuy vẫn còn đôi chỗ chưa lột tả hết được tinh thần nguyên tác.
Bốn câu đầu của bài thơ nhắc lại quan niệm về “chí làm trai” của các nhà nho xưa với tinh thần khẳng định. Theo đó, khát vọng làm những việc lớn của nhân vật trữ tình cũng được thể hiện một cách sâu sắc. Câu thứ nhất đã được bản dịch nghĩa làm rõ ý: Sinh làm nam nhi phải mong chuyện khác thường. Câu thứ hai có thể được hiểu như một lời tự nhắc nhở, một phân vân: lẽ nào để trời đất tự vần xoay tới đâu thì tới mà mình là kẻ đứng ngoài, vô can? Câu thứ ba không chỉ đơn giản xác nhận sự có mặt của nhân vật trữ tình ở trên đời mà còn hàm chứa một tâm niệm: ta hiện diện không phải như một sự kiện ngẫu nhiên, vô ích và vì vậy, ta phải làm được một việc gì đó có ý nghĩa cho đời. Câu thứ tư có tài liệu dịch nghĩa: còn như chuyện ngàn năm thì có người sắp tới. Có thể nói rõ ý hơn là: ngàn năm sau lẽ nào chẳng có người nối tiếp công việc của người trước? Như vậy, hai câu 3,4 cho thấy rõ cái tôi đầy trách nhiệm của nhà thơ: thấy việc không thể không làm, không ỉ lại cho ai. Hơn thế, cáo tôi ấy thấy rõ lịch sử là một dòng chảy liên tục, có sự góp mặt, sự tham gia gánh vác công việc của nhiều thế hệ.
Hai từ “hi kì” (hiếm lạ. khác thường) ở câu thứ nhất cần được hiếu như những từ nói về tính chất lớn lao, trọng đại, kì vĩ của công việc mà kẻ làm trai phải gánh vác. Trước Phan Bội Châu, đã có nhiều người phát biểu về vấn đề này trong thơ: “Bay thẳng cánh muôn trùng tiêu hán / Phá vòng vây bạn với kim ô” (Chim trong lồng - Nguyễn Hữu Cầu); “Đã mang tiếng ở trong trời đất / Phải có danh gì với núi sông” (Đi thi tự vịnh - Nguyễn Công Trứ); “Chí làm trai nam bắc tây đông / Cho phí sức vẫy vùng trong bôn bể (Chí anh hùng - Nguyễn Công Trứ). Từ “lạ” trong bản dịch thơ chưa thể hiện ý tứ của hai từ “hi kì” trong nguyên tác.
Cảm hứng và ý tưởng về “chí làm trai” của Phan Bội Châu có phần gần gũi với lí tưởng nhân sinh của các nhà Nho thuở trước nhưng táo bạo và quyết liệt hơn. Nếu theo dõi nhiều sáng tác của Phan Bội Châu chúng ta còn nhận thấy nhà chí sĩ này luôn quan tâm tới việc giáo dục lí tưởng, lẽ sống cho thanh niên.
Câu phá đề khẳng định một lẽ sống đẹp: “làm trai phải lạ ở trên đời” (Làm trai phải mong có điều lạ) nghĩa là phải biết sống cho phi thường, hiển hách, phải dám mưu đồ những việc lớn, kinh thiên động địa, khi nước nhà lâm nguy phải ra tay cứu nước, phải xoay chuyển lịch sử.
Câu thừa đề tiếp tục triển khai cụ thể. Đều lạ ấy chính là việc xoay chuyển “càn khôn”, xoay chuyển thời thế, không thể buông xuôi theo số phận, mặc cho con tạo xoay vần. Trong một bài hát nói trước đó, Phan Bội Châu cũng đã từng khẳng định: “Giang sơn còn tô vẽ mặt nam nhi / Sinh thời thế phải xoay nên thời thế”. Con người dám đối mặt với cả đất trời cả vũ trụ để tự khẳng định mình. Đó là một tư thế, tầm vóc lẫm liệt, phi thường.
Hai câu 3 và 4 triển khai cụ thể ý tưởng về chí làm trai ở hai câu trên bằng cách khẳng định ý thức trách nhiệm của cá nhân trước thời cuộc. “Tớ” (Trong khoảng trăm năm cần có tớ) ở đây là cái tôi nhà thơ, một cái tôi công dân đầy tinh thần trách nhiệm trước cuộc đời. Cuộc thế trăm năm này cần có ta không phải để hường lạc thú mà là để cống hiến cho đời, để đáng mặt nam nhi, để lưu danh thiên cổ (muôn thuở há không ai). Đó là một khát vọng chính đáng và cao cả của một con người sống có trách nhiệm với cuộc đời và dám chịu trách nhiệm về mình, rộng hơn là trách nhiệm với non sông đất nước.
Phan Bội Châu sinh ra và lớn lên trong bối cảnh đen tối của lịch sử nước nhà. Nước mất, Nhà tan, cần vương thất bại. Một bầu không khí u ám bao trùm. Hai câu 5 và 6 thể hiện thái độ quyết liệt trước tình cảnh đất nước và những tín điều xưa cũ. Câu thứ 5 nói lên nỗi nhục mất nước, nỗi xót đau đốt cháy tâm can nhà thơ, đồng thời cũng khẳng định ý chí sắt thép của những con người không cam chịu sống cuộc đời nô lệ, đắng cay (non sông đã chết, sống thêm nhục).
Trong câu thơ thứ 6, ý tưởng của Phan Bội Châu đã vượt hẳn lên, mang những sắc thái mới của tư tưởng thời đại. Thái độ của nhân vật trữ tình đối với nền học vấn cũ là thái độ chối bỏ đầy tinh thần cách mạng. Ông dám đối mặt với cả nền học vấn cũ để khẳng định một chân lí: sách vở thánh hiền chẳng giúp ích gì được trong thời buổi nước mất nhà tan, nếu cứ khư khư ôm lấy thì chỉ “ngu” mà thôi. Ông thực sự dè bỉu thái độ “bình chân như vại” cùng kiểu ứng xứ “nhắm mắt làm ngơ” trước thực tại, chỉ biết tụng niệm giáo lí thánh hiền trong khi linh hồn của nó thì đã tiêu vong tự đời nào. Phan Bội Châu không có ý phủ nhận cả nền học vấn Nho giáo nhưng nhận thức được một chân lí mới mẻ như vậy quả là hết sức táo bạo đối với một người đã từng gắn bó với “cửa Khổng, sản Trình” như ông. Có được dũng khí và nhận thức sáng suốt đó trước hết phải kể đến tấm lòng yêu nước nồng cháy, đến khát vọng tìm con đường đi mới có thể đưa nước nhà thoát cảnh khổ đau. Bên cạnh đó không thể không nói đến ảnh hưởng của luồng tư tưởng mới đang len lỏi vào nước ta. Phan Bội Châu chính là một nhà cách mạng đi tiên phong. Cái mà ông kêu gọi chính là sự thức thời, là tinh thần hành động vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Đây chính là hệ qui chiếu mà ông đã dùng để đánh giá, nhìn nhận tất cả những vấn đề còn lại.
Bài thơ kết lại với tư thế và khát vọng trong buổi lên đường của nhân vật trữ tình. Các hình ảnh lớn lao kì vì (biển Đông, cánh gió, muôn trùng sóng bạc) như hòa nhập với con người trong tư thế bay lên. Câu thơ kịch (Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi) không hoàn toàn bám sát ý nguyên tác, đã chuyển một khát vọng, một dự cảm, một liên tường bất chợt thành sự tường thuật, miêu tả thực tế. Do vậy, chưa truyền đạt được phong độ hào hùng, niềm hăm hở dấn thân cùng trí tưởng tượng bay bổng của nhà thơ. Tâm thế cùng tư thế của nhân vật trữ tình lúc này là muốn lao ngay vào một trường hoạt động mới mẻ, sôi động, bay lên là quẫy sóng đại dương hay bay lên cùng những đợt sóng trào sôi vừa thoáng hiện trong tâm tưởng. Hình ảnh “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi” (Muôn lớp sóng bạc cũng bay theo) thật lãng mạn, hào hùng. Con người thường như được chắp đôi cánh thiên thần, bay lên trên thực tại khắc nghiệt, vươn ngang tầm vũ trụ bao la. Đây là một hình tượng đẹp, giàu chất sử thi.
Giọng điệu thơ chính là giọng điệu tâm hồn nghệ sĩ. Bài thơ có giọng điệu tâm huyết sôi trào cuồn cuộn. Hãy đọc bài thơ từ bản phiên âm chữ Hán, ta sẽ cảm nhận đầy đủ hơn giọng điệu đó. Tác giả sử dụng những động từ mạnh, cách ngắt nhịp dứt khoát. Các câu thơ đều là dạng câu khẳng định Ngay cả những câu hỏi tu từ cũng nhằm mục đích khẳng định. Vì thế, lời thơ trở nên rắn rỏi. Những câu hỏi, những từ ngữ tình thái cùng với những hình ảnh kì vĩ lớn lao có giá trị biểu hiện cảm xúc mãnh liệt, nhiệt huyết sôi trào.
Bài thơ có một hệ thông hình ảnh, khái niệm vô cùng lớn lao, phi thường nam tử, càn khôn, bách niên tải hậu, giang sơn, hiền thánh, trường phong Đông Hải, nhất là hình ảnh kết lại bài thơ: “Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi”. Một con người mang chí lớn, quyết tâm cao, khát vọng mãnh liệt, cháy bỏng.. Tất sẽ tìm đến những hình ảnh thơ như thế.
Kết bài:
Hình tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ là hình tượng một người anh hùng tràn đầy ý thức về cái tôi của mình, một cái tôi luôn thao thức về sự tồn vong của giống nòi, dân tộc. Bài thơ được viết theo bút pháp khoa trương của thơ tỏ chí cố điển rất cần thiết cho nhu cầu tuyên truyền, cổ động. Nỗi đau. niềm lạc quan, nhiệt tình hành động cùng tư tưởng cách mạng của tác giả thực sự thổi hồn vào câu chữ, hình ảnh khiến chúng vừa mang đậm dấu ấn tác giả vừa có sức lay động thấm thìa. Đây là bài thơ từ biệt mà cũng là bài thơ mời gọi lên dường. Nó hoàn toàn xứng đáng với cốt cách của con người được cả dân tộc ngưỡng vọng và tin tưởng vào thời điểm lịch sử khi đó.
Chi với 56 âm tiết, bài thơ chứa đựng nội dung tư tưởng vừa phong phú, vừa lớn lao; chí làm trai tiến bộ, khát vọng mãnh liệt, ý thức cá nhân và trách nhiệm cao cả, tư thế hăm hở ra đi hòa với vũ trụ... Tất cả thể hiện một nhiệt tình cứu nước sục sôi, tuôn trào.
Đề 3: Phân tích chí làm trai trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu
Mở bài:
Những năm đầu thế kỉ XX, đất nước ta một lần nữa lại bị ngoại bang xâm lược; những cuộc kháng chiến nổ ra khắp trong cả nước. Người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu là lá cờ đầu kháng chiến, ông không chỉ có con đường cứu nước mới mẻ mà ông còn để lại một kho tàng văn học lớn, có sức cổ động mạnh mẽ, trong đó không thể không nhắc đến bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương". Bài thơ không chỉ nói lên tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc mà còn nói lên "chí làm trai" khác biệt.
Thân bài:
Bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" được Phan Bội Châu sáng tác vào năm 1905 giữa tình hình đất nước đang chìm trong ách kìm kẹp của chế độ thực dân. Là người chủ trương trong phong trào Duy Tân, ông tìm đường cứu nước bằng cách sang Nhật. Trước khi xuất dương, ông đã làm bài thơ để gửi tặng những người bạn của mình, cũng để bày tỏ tinh thần yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc của chính bản thân.
"Sinh vi nam tử yếu hy kỳ,
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di".
(Làm trai phải lạ ở trên đời,
Há để càn khôn tự chuyển dời).
Thời phong kiến, chí làm trai tức là phải tề quốc, trị gia bình thiên hạ. Người con trai phải có sự nghiệp, công danh, giúp dân giúp nước. Nhưng với Phan Bội Châu, ông lại muốn "làm trai phải lạ ở trên đời". Cái "lạ" ở đây tức là ông muốn làm những điều khác thường, "xoay chuyển được càn khôn".
Nếu như Nguyễn Công Trứ chỉ ở mức "Chí làm trai nam bắc tây đông/ Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn biển", Phạm Ngũ Lão: "Nam nhi vị liễu công danh trái/ Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu" thì Phan Bội Châu lại muốn thay đổi càn khôn, không chịu khuất phục sự sắp đặt trong trời đất. Vần xoay vũ trụ theo ý chí mình, bước qua khỏi ranh giới an toàn, đi tìm một chân trời mới. Nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu mang đến quan niệm về chí làm trai trong thời đại mới, tạo ra một ý tưởng thật lớn lao, mạnh mẽ. Đó cũng là lời khẳng định sức mạnh của con người giữa vũ trụ bao la.
"Ư bách niên trung tu hữu ngã,
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy"
(Trong khoảng trăm năm cần có tớ,
Sau này muôn thuở há không ai?)
Hai câu thơ thực trong bài thơ "Lưu biệt khi xuất dương" của Phan Bội Châu tiếp tục khẳng định cho chí làm trai lớn lao. Không chỉ "xoay chuyển càn khôn" mà chí làm trai còn cần gắn liền với ý thức trách nhiệm với dân tộc.
Từ "tớ" được xem như là một danh xưng của chính tác giả, một ý thức trách nhiệm trước thời cuộc. Từ "tớ" trong câu thơ dịch cũng tạo nên sự ngông nghênh, bộc lộ một cái tôi tích cực. Câu hỏi ngỏ "Sau này muôn thuở há không ai?", Phan Bội Châu đã không chỉ khẳng định được cái tôi trách nhiệm với đất nước mà còn bày tỏ được sự tin tưởng, khát vọng về "khoảng trăm năm", ý thức trách nhiệm của mỗi người với đất nước. Tác giả không hướng về riêng quá khứ mà còn là hiện tại, tương lai. Đó cũng chính là bài học dành cho thế hệ trẻ của đất nước, luôn phải có cái tôi mạnh mẽ, dám hi sinh vì dân tộc.
Nếu như trước đây cổng Trạng sân Trình là niềm khát khao, niềm tự hào của rất nhiều người; đặc biệt là đối với nam nhi, đó là con đường gầy dựng sự nghiệp thì giờ đây Phan Bội Châu chỉ còn biết thở dài:
"Non sông đã chết sống thêm nhục
Hiền thánh còn đâu học cũng hoài".
"Non sông đã chết" - câu thơ thật đau lòng làm sao!. Đất nước, non sông giờ đây đang bị giày xéo dưới bước chân của những kẻ ngoại bang. Đối với những người theo Nho giáo như ông, còn gì đau lòng hơn khi sách vở, công danh cũng không giúp gì được cho Tổ quốc. "Hiền thánh còn đâu học cũng hoài" ở đây không phải Phan Bội Châu muốn phủ định đi sách thánh hiền mà là giữa thời cuộc, ông chọn đi theo con đường giải cứu đất nước, đọc sách, thi cử công danh trong thời cuộc ấy có ý nghĩa gì.
Nhà chí sĩ Phan Bội Châu quả là con người có tầm nhìn cao rộng. Với ông, thời khắc ấy không có gì đau lòng hơn là nỗi đau mất đi sự tự do trên chính dân tộc mình. Ông sẵn sàng bỏ đi lợi ích cá nhân để tìm thấy lợi ích chung cho dân tộc. Trong những năm đầu thế kỉ XX, đây quả thực là một quyết định táo bạo, trở thành tư tưởng mới, ánh sáng mới.
"Nguyện trục trường phong Đông hải khứ
Thiên trùng bạch lãng nhất tề phi",
(Muốn vượt biển Đông theo cánh gió
Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi).
Cánh buồm giăng giữa muôn trùng ngàn khơi tạo nên một hình ảnh vô cùng lãng mạn. Ý chí của nhà chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu cũng tựa như con thuyền ấy, ra khơi giữa mây ngàn sóng nước, trước mặt với vô vàn thử thách; nhưng ra đi với tâm thế mạnh mẽ; không lo sợ sóng gió.
Câu thơ "thiên trùng bạch lãng nhất tề phi" được dịch nghĩa là "muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi", câu thơ dịch nghĩa chưa sát với nguyên tác, hình ảnh còn bay bổng, lãng mạn hoá; làm giảm đi tinh thần mạnh mẽ, ý chí quyết tâm ra đi cứu nước. Hình ảnh đối lập giữa sự nhỏ bé của con người với sự bao la của vũ trụ tạo nên hình tượng sử thi, tạo nên một bức tranh vô cùng hoành tráng với ước vọng bay lên, tạo nên một chân trời mới. Câu thơ cũng khẳng định sự quyết tâm, tự tin về sự thay đổi trong tương lai.
Kết bài:
Trang thơ của nhà ái quốc Phan Bội Châu với hình ảnh đấng nam nhi muốn làm ngược lại với quy luật tự nhiên, cái tôi cá nhân cùng với trách nhiệm với Tổ quốc. Bằng thể thơ thất ngôn bát cú đường luật, giọng văn hào sảng, mạnh mẽ đã tạo nên hình ảnh phi thường của người chí sĩ ra đi cứu nước. Bài thơ đã tạo nên một luồng gió mới trong thơ văn, một vài ca mới trong cuộc chiến chống quân xâm lược Pháp đầu thế kỉ XX.
Chí làm trai của Phan Bội Châu không chỉ có ý nghĩa trong thời điểm ấy mà đến thế kỉ XXI hay mãi mãi về sau, đó là bài học, là tấm gương cho lớp lớp thế hệ về tinh thần dân tộc, ý thức trách nhiệm; biết đương đầu với khó khăn, thử thách; loại bỏ cái tôi cá nhân để hoàn thành nghĩa vụ với Tổ quốc.